NHỮNG THẤT BẠI CỦA KH-CN >Phần 1: KÊNH ĐÀO FUNAN - TECHO, VIỆT NAM BỊ UNG THƯ NẶNG VỀ KHOA HỌC
Ngày đăng: 06-06-2024 - 09:20:13

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

-----o0o-----

 

Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 2024

 

Khẩn trình:

 

 

 

 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Thủ tướng Phạm Minh Chính

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Chủ tịch UBND các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long

Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam

  

(Về dự án kênh đào Funan Techo tại Campuchia: Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học, đang rất có hại cho đất nước)

Tôi tên là Nguyễn Đức Thắng, cán bộ Nhà nước về hưu năm 2009, có quá trình công tác hơn 10 năm tại Viện Kỹ thuật quân sự, tiếp đến là 10 năm tại Viện Khoa học Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) và cuối cùng là 11 năm tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tôi xin phép được trình bầy những trăn trở về dự án kênh đào Funan Techo tại Campuchia đang nóng trên truyền thông, báo chí. Theo tôi Việt Nam đã rất sai về khoa học, dẫn đến căng về chính trị, truyền thông báo chí kích động nhân dân, đang rất có hại cho đất nước. Chúng ta đang đánh đổi hòa bình, hữu nghị với nhân dân Campuchia để lấy 0,05% giọt nước sông Mê Công.

Ngoài ra 30 năm phát triển vừa qua, GDP hàng năm của chúng ta được tạo ra, chủ yếu dựa vào công nghệ, máy móc, thiết bị ngoại; hầu hết đến từ Trung Quốc. Nguyên vật liệu, linh phụ kiện chủ yếu cũng nhập khẩu từ Trung Quốc. Phần giá trị vật hóa này, tạo nên khoảng 80% GDP. 20% còn lại được hình thành từ tài nguyên môi trường sinh thái (10%) và sức lao động chân tay của chúng ta (10%). Như vậy tăng trưởng GDP hàng năm của chúng ta từ 6 – 8% chủ yếu là do sức lao động chân tay tạo ra. Phần giá trị của trí tuệ, chất xám đưa vào sản phẩm, hàng hóa là của người Trung Quốc, thông qua bán công nghệ, máy móc, thiết bị v.v.. Có nghĩa là chúng ta đi trên đôi chân của người Trung Quốc để hy vọng trở nên hùng cường. Cụ thể như những phân tích, chứng minh chi tiết dưới đây: 

 

 

I. THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ DỰ ÁN

 

Ngày 19/5/2023 Hội đồng Bộ trưởng Campuchia phê chuẩn dự án “Hệ thống Logistics và Điều hướng Tonle Sap Bassac”, gọi tắt là dự án Kênh đào Funan Techo, nối từ bờ Prek Takeo sông Mê Công đến Prek Ta Hing trên sông Bassac, sau đó đổ ra Vịnh Thái Lan tại Kep Campuchia, cách biên giới Việt Nam 20km. Kênh chảy qua 4 tỉnh gồm Kandal, Takeo, Kampot và Kep, hai bên có khoảng 1,6 triệu người sinh sống. Chính phủ Campuchia kỳ vọng dự án sẽ giúp khai thác tối đa tiềm năng vận tải đường thủy, đảm đương 70% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của đất nước. Còn lại 20% sẽ bằng bằng bộ, 10% bằng đường không. Từ đó tăng cường các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và dân cư sống dọc kênh này nói riêng. Dự án sẽ sử dụng nước sông Mê Công 5m3/s. Tổng vốn đầu tư khoảng 1,7 tỷ USD. Cơ chế thực hiện đầu tư sẽ là BOT (Xây dựng – Vận hành – Chuyển giao); có khả năng một công ty của Trung Quốc sẽ triển khai thực hiện. Dự án dự kiến khởi công trong năm 2024 và hoàn thành vào năm 2027, với tổng lượng hàng hóa lưu thông qua tuyến đường thủy mới này là 7 triệu tấn/năm. Ngày 8/8/2023 phía Campuchia đã gửi Thông báo (Notification) về dự án cho Ủy hội sông Mê Công quốc tế MRC, bao gồm Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, đồng nghĩa với việc Ủy ban sông Mê Công quốc gia Việt Nam cũng nhận được Thông báo.

 

Dự án kênh Funan - Techo sẽ nâng cấp và cải tạo 182 km tuyến kênh - sông, bao gồm 3 đoạn: Đoạn thứ nhất là 16 km kênh đào nối từ một cảng trên sông Mê Công với sông Bassac. Đoạn hai là 29km dài tự nhiên của con sông Bassac. Đoạn ba tiếp theo là 137km kênh đào ra cảng biển Kep của Campuchia, cách biên giới Việt Nam khoảng 20km. Tại đầu kênh đào của đoạn 3, sông Bassac tiếp tục chảy vào thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang, được gọi là sông Hậu.

 

 

II. QUAN ĐIỂM CỦA VIỆT NAM VỀ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA DỰ ÁN

 

Ngày 23/4/2024, tại thành phố Cần Thơ, Ủy ban sông Mê Công Việt Nam đã phối hợp với Ban Thư ký Ủy hội sông Mê Công quốc tế tổ chức cuộc họp tham vấn về Dự án Kênh đào Funan Techo của Campuchia. Tham dự cuộc họp có khoảng 100 đại biểu đại diện của các Bộ, ngành, địa phương thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), các tổ chức quốc tế, các viện nghiên cứu, nhà khoa học và truyền thông báo chí. Các cây đa khoa học Việt Nam đã bầy tỏ những quan ngại về những tác động tiêu cực của dự án; cụ thể như dưới đây:

 

1) PGS. TS Lê Anh Tuấn, giảng viên chính, Khoa Môi trường và Tài nguyên, Đại học Cần Thơ, cho biết dự án khi hình thành chắc chắn tác động tiêu cực đến Đồng bằng sông Cửu Long. Sẽ gia tăng tình trạng thiếu nước ngọt trong sinh hoạt, canh tác, sản xuất; mặn xâm nhập sâu và nhiều hơn; các hệ sinh thái sẽ bị đảo lộn. Nước sông, bạn lấy lý do phát triển giao thông, nhưng rất có thể sẽ sử dụng nhiều cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp. Trong cơ cấu lượng nước sông Mê Công khi vào Việt Nam thì sông Tiền chiếm 90%, sông Hậu 10%. Vì lượng nước từ sông Hậu không đủ, nên dự án mới có đoạn kênh đào nối thông với sông Tiền. Khả năng phía Campuchia sẽ lấy đến 30% lượng nước của sông Mê Công.

 

2) PGS.TS Phạm Đăng Trí, Viện trưởng Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu (DRAGON – Mê Công), Đại học Cần Thơ, cũng bày tỏ lo ngại dự án kênh Funan Techo sẽ ảnh hưởng tiêu cực môi trường và hệ thống nước sông Mê Công, đặc biệt là dòng hạ lưu từ Campuchia về Việt Nam.

TS.Trí không kỳ vọng vào "sức tác động" của Ủy hội sông Mê Công. Bởi lẽ, MRC chỉ là bên điều phối, giúp các quốc gia cùng nhau ngồi lại đàm phán vì lợi ích chung của dòng sông, nhưng lại không thể ban hành chế tài cụ thể. Khi những con đập được xây dựng trên dòng chính, nhưng MRC không quyết định được bởi họ chỉ là đơn vị tạo sân chơi cho các bên trao đổi. Dù vậy, đây vẫn là cơ chế quốc tế chính thức, được công nhận. Do đó, trong bối cảnh hiện tại, Việt Nam cần đặt ra các vấn đề của kênh đào này và thông qua MRC để "quốc tế hóa" nó, tạo áp lực để phía Campuchia có báo cáo đầy đủ và chi tiết hơn.

 

3) TS. Nguyễn Nghĩa Hùng, Viện phó Khoa học Thủy lợi miền Nam (SIWRR), cho biết quá trình theo dõi và cập nhật liên tục các thay đổi khí tượng, thủy văn ở lưu vực sông Mê Công cho thấy, việc phát triển thủy điện và nông nghiệp ở thượng nguồn gây nhiều tác động đến hạ nguồn. Cụ thể, xu thế lũ nhỏ đi, số năm lũ lớn ít hơn, phù sa giảm, điều tiết của Biển Hồ (Tonle Sap Lake) giảm. Số năm hạn mặn lịch sử xuất hiện trở lại dày hơn, cụ thể là 2015-2016, 2019-2020; 2023-2024. Tuyến kênh giao thông thủy Funan Techo sẽ làm gia tăng hạn và xâm nhập mặn trên đồng bằng. Bình quân lưu lượng nước lấy có thể lớn hơn con số báo cáo là 5m3/s, vì còn phục vụ cho mục đích sản xuất nông nghiệp và rủi ro vận hành van khóa kiểm soát dòng chảy.

 

4) Ủy ban sông Mê Công Việt Nam tiếp thu những quan ngại trên để làm việc với MRC và Ủy ban sông Mê Công Campuchia.

 

5) Ngày 9/5, liên quan đến ý kiến của Phó thủ tướng Campuchia Sun Chanthol ngày 7/5 (xem bên dưới), người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cho biết: “Những thông tin chúng tôi có được tới thời điểm này về dự án Funan Techo chưa đủ để đánh giá cụ thể về mức độ tác động của dự án này. Mong muốn phía Campuchia tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Việt Nam và các nước trong Ủy hội sông Mê Công, chia sẻ đầy đủ thông tin về dự án và tiến hành đánh giá chi tiết các tác động của dự án này với tài nguyên nước và môi trường sinh thái của khu vực tiểu vùng sông Mê Công và đồng thời cũng là các biện pháp quản lý chung và dài hạn, đảm bảo hài hòa lợi ích của các quốc gia ven sông, quản lý sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên nước sông Mê Công.

6) Truyền thông, báo chí cả nước bám sát và tích cực đưa tin về những quan ngại nói trên. Các mạng xã hội đương nhiên tràn ngập thông tin nặng nề, kích động hận thù dân tộc.

7) Một số người đã vào tài khoản mạng xã hội của ông Hun Sen, Chủ tịch Thượng viện Campuchia bình luận những câu rất phản cảm.

 

III. QUAN ĐIỂM CỦA LÃNH ĐẠO CAMPUCHIA

 

Ngày 7/5, báo chí Campuchia dẫn lời Phó thủ tướng Campuchia Sun Chanthol cho biết nước này "Không lơ là trách nhiệm chia sẻ thông tin chi tiết về dự án kênh đào Funan Techo cho Việt Nam, cả chính thức và không chính thức. Kênh đào nhân tạo này khi đi vào vận hành chỉ có lưu lượng 5m3/s, tương đương 0,053% lưu lượng dòng Mê Công. Như thế, kênh đào Funan Techo thậm chí còn góp phần giảm nhẹ lũ lụt ở miền Nam Việt Nam. Campuchia không có nghĩa vụ cung cấp thêm thông tin và sẽ không tham vấn với các quốc gia trong khu vực về kênh đào Funan Techo. Vì dự án này có tác động tối thiểu đến môi trường. Lượng nước qua kênh là 5 mét khối mỗi giây, còn dòng chảy sông MeCông là 8.000 mét khối mỗi giây. Lượng nước được chuyển hướng đi chỉ bằng một giọt nước trong xô".

 

Chủ tịch Thượng viện Campuchia là ông Hun Sen luôn hối thúc Thủ tướng Hun Manet cho khởi công kênh đào Funan Techo "càng sớm càng tốt" để phát triển kinh tế mà "không cần chờ đợi thêm", để tránh những ý kiến bất lợi.

Ngày 30/5, Thủ tướng Hun Manet Dự án là ước mơ của nhiều người từ rất lâu. Chúng ta sẽ ngừng mơ mộng và bắt đầu triển khai. Dự án sẽ khởi công vào tháng 8".

 

IV. VIỆT NAM ĐÃ BỊ UNG THƯ NẶNG VỀ KHOA HỌC, ĐÃ VÀ ĐANG GÂY HẠI RẤT LỚN CHO ĐẤT NƯỚC

 

Tôi bắt buộc phải viết ra điều này. Đó là kết luận chắc chắn của tôi. Vì những chính sách vĩ mô mà không có căn cứ khoa học, tác động gây hại đến 100 triệu dân là vô cùng to lớn. Trong khoa học, nói thẳng sự thật tuy cay đắng, nhưng còn hữu ích hơn giả dối tô hồng. Giả dối tô hồng là rất nguy hại. Khen, nịnh nhau giả dối, tung hô, lan truyền cả những điều phản khoa học, vừa nguy hại cho cá nhân nói riêng và cho cả đất nước nói chung. Tôi đã quan sát nhiều năm và thấy các cây đa khoa học Việt Nam chỉ hiểu theo cảm tính, không hiểu theo số liệu. Tại đây, liên quan đến dự án kênh đào Funan Techo và tác động của nó đến Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) tôi chỉ nêu một số ít bằng chứng Thực tế/Sự thật (TT/ST) để chứng minh là Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học. Các lĩnh vực khác tôi cũng có rất nhiều bằng chứng được nêu rất cụ thể tại gần 190 bài viết của tôi trong 12 lĩnh vực công bố trên website nguyenducthang.vn.

 

Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học đang rất có hại cho đất nước: Vì Ủy ban Mê Công Việt Nam được Hội đồng Chính phủ ký quyết định thành lập số 237-CP ngày 18/9/1978. Tính đến năm 2017 là 39 năm, thế mà họ tuyệt nhiên không sử dụng hai số liệu rất cơ bản, rất cốt lõi, trụ cột về sông Mê Công, đó là tổng lưu lượng dòng chảy bình quân nhiều năm là 473 tỷ m3 nước và tổng lượng phù sa là 66 triệu tấn hàng năm của sông Mê Công chảy về ĐBSCL, được in ấn phổ biến khắp nơi, hay online trên mạng. Nhưng họ đã sử dụng số liệu của tác giả Morgan F. R., 1961 là 4.000 tỷ m3 nước và 100 triệu tấn phù sa để tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ chủ trì hội nghị tại Cần Thơ từ 26-27/9/2017 về các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu tại ĐBSCL. Đó là một hội nghị có thể ví như Hội nghị diên hồng về ĐBSCL. Rất nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, chính trị gia đầy tâm huyết và trăn trở, tập trung hiến kế cứu ĐBSCL. Tôi đã nghiên cứu báo cáo này về “sạt lở bờ sông, bờ biển” và thấy rằng nó đậm đặc trí tưởng tượng và chém gió. Theo tôi, các lãnh đạo chính trị (từ cấp lãnh đạo Bộ trở lên) ăn gì, uống gì, nghe và nói gì đều do các lãnh đạo cấp tham mưu chuyên môn chuẩn bị cho hết. Tham mưu và cố vấn cho cấp Bộ và cấp Bộ trình tiếp lên Tứ trụ Triều đình như vậy rõ ràng là rất sai. Dưới đây là ảnh chụp nguyên văn trang đầu của báo cáo:

 

Số liệu 473 tỷ m3 nước/năm và 66 triệu tấn phù sa/năm chảy về ĐBSCL là trung bình cho nhiều năm, tôi tin là do cả  một tập thể nhiều nhà khoa học uy tín quốc tế, dựa trên những số liệu đo đạc, quan trắc về khí tượng và thủy văn nhiều năm, trên toàn lưu vực sông Mê Công, và dựa trên nhiều triệu USD do một số nhà tài trợ lớn quốc tế, đã tính toán, qua nhiều hội nghị và hội thảo, đi vào chung kết tạo nên. Do vậy chúng ta sẽ không thể tìm thấy tên một tác giả, cá  nhân nhà khoa học nào được phép đứng cạnh hai số liệu trên.

 

Từ số liệu cho 01 năm, bất kỳ một ai cũng có thể tính ra số liệu cho 01 giây; bằng cách chia cho 365 ngày, với 24 giờ và 3600 giây ta được 14.999 m3/s. Hãy làm tròn và luôn ghi nhớ là 15.000m3 nước trong 01 giây chảy vào sông Tiền và sông Hậu.

Hãy nên nhớ rằng, ông cha ta đã nói “Mưa trên đất ai, cá bơi vào ao nhà nào, nhà đó hưởng”. Tuy nhiên các nước thượng nguồn không thể dùng hết, còn lại 15.000m3/s họ “trao tặng” cho nhân dân ĐBSCL. Phù sa và cát thuộc đất đai, lãnh thổ rất thiêng liêng, cao quý, thuộc quyền sở hữu của mỗi quốc gia. Do vậy mà Việt Nam đòi phù sa và cát, phản đối đập thủy điện của các nước thượng nguồn vì giữ lại, là rất vô duyên. Tư duy cứ bị trói buộc vào các đập thủy điện, nên bị ung thư nặng về khoa học là đúng.

 

Việt Nam ở cuối nguồn hưởng thụ trọn vẹn lượng nước và phù sa quí giá ấy, chúng ta cũng nên  biết cụ thể sự đóng góp của từng nước là bao nhiêu để ghi nhớ công ơn của họ. Ngày 5/4/1995 tại Chiang Rai Thái Lan, hội nghị Ngoại trưởng 4 nước Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam ký văn bản Thỏa thuận về Hợp tác Phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công (MRC), thành lập Ủy hội sông Mê Công, có thông tin ghi rõ sự đóng góp nước cho sông Mê Công tạo nên 473 tỷ m3, cụ thể như sau: Trung Quốc 16% (76 tỷ m3), Myanmar 2% (9 tỷ m3), Lào 35% (166 tỷ m3), Thái Lan 18% (85 tỷ m3), Campuchia 18% (85 tỷ m3). Việt Nam 11% (52 tỷ m3) là nước mưa rơi trên sườn Tây của Tây Nguyên chảy vào hệ thống sông Sesan và Srepok sau khi chảy qua 15 đập hồ thủy điện của Việt Nam mới đổ vào vùng Đông Bắc Campuchia, vào sông Mê Công và quay lại Việt Nam vào sông Tiền và sông Hậu.

Chúng ta phải luôn ghi nhớ là 5 nước thượng nguồn đã khai thác nước, dùng no đủ cho phát triển kinh tế - xã hội của họ. Còn lại 89% của 473 tỷ m3, bằng 421 tỷ m3 là “tặng” cho Việt Nam. Vì các cây đa khoa học Việt Nam và truyền thông báo chí luôn công phá Trung Quốc và Campuchia rất nhiều, nên tôi cần nhắc lại là hàng năm Trung Quốc tặng cho ĐBSCL 76 tỷ m3 nước, Campuchia tặng 85 tỷ m3 nước, chưa tính đến hàng triệu tấn phù sa.

 

Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học, đang gây hại cho đất nước: Vì Việt Nam thực sự có thừa vô vàn nước, nhưng không biết cách sử dụng, nên cứ hạn, mặn tại ĐBSCL là đổ lỗi cho các đập thủy điện thượng nguồn. Giới trí thức tinh hoa của Việt Nam đã đổ lỗi cho người Trung Quốc, có người còn kêu gọi người dân xông lên đập phá các nhà máy thủy điện.

Ngoài 473 tỷ m3 nước sông Mê Công đổ vào sông Tiền và sông Hậu, tại ĐBSCL hàng năm còn có 71 tỷ m3 nước mưa tinh khiết trực tiếp rơi xuống. Trên các mái che (túp lều, nhà thấp tầng và cao tầng), nếu loại bỏ đi 3 phút mưa ban đầu vì bụi bẩn, ô nhiễm không khí, nước mưa còn lại sau đó, tôi khẳng định là tuyệt vời cho ăn, uống. Vì hơi nước từ ngoài đại dương bốc lên là rất tinh khiết, thuần túy là H2O. Đó là kiến thức rất cơ bản của khoa học.

Tổng lượng nước mưa tinh khiết vào mùa khô là 8 tỷ m3/năm.

 

Tổng lượng nước mưa tinh khiết vào mùa mưa là 63 tỷ m3/năm.

Tổng lượng nước mưa tinh khiết cho cả năm sẽ là 71 tỷ m3/năm.

Như vậy tổng lượng nước ngọt hàng năm mà ĐBSCL có được sẽ là 473 tỷ m3 + 71 tỷ m3 sẽ là 544 tỷ m3 thế mà vẫn thiếu nước, hạn hán và xâm nhập mặn gia tăng. Vậy cụ thể ĐBSCL có tổng diện tích 40.577 km² và tổng dân số 17,7 triệu người (2022) cần bao nhiêu nước để phát triển?.

 

Dưới đây là những kết quả tính toán lấy từ website của Viện Khoa học tài nguyên nước: Tổng nhu cầu nước cần thiết cho ĐBSCL vào năm 2016 là 40,8 tỷ m3, năm 2018 là 33,3 tỷ m3. Trong đó nhu cầu nước cho lúa chiếm đến trên 70%, tiếp theo sản xuất công nghiệp chiếm 15%, cây hoa màu và ăn trái cần 10% và thủy sản chiếm 2%. Nhu cầu nước cho sinh hoạt và chăn nuôi chiếm tỉ trọng không đáng kể, dưới 3%. Chi tiết tại đường dẫn này:

(http://wri.vn/Pages/xay-dung-chuong-trinh-tinh-va-lap-ban-do-nhu-cau-su-dung-nuoc---ung-dung-cho-khu-vuc-dong-bang-song-cuu-long.aspx)

Những số liệu tính toán trên là tin cậy, vì phù hợp với cơ cấu tỷ lệ sử dụng nước theo thông lệ quốc tế và năm HẠN MẶN LỊCH SỬ của ĐBSCL là 2015-2016, đã dẫn đến Hội nghị diên hồng về ĐBSCL tại Cần Thơ từ 26-27/9/2017. Năm đó toàn ĐBSCL đã dùng 40,8 tỷ m3 để phát triển, chỉ bằng 57,5% của tổng lượng nước mưa tinh khiết rơi xuống ĐBSCL, là 71 tỷ m3. Ngồi tại Hội nghị diên hồng mà các nhà khoa học Việt Nam suy nghĩ theo cảm tính, nặng lòng thương sót ĐBSCL, nên lại tiếp tục kiên định qui tội cho các đập hồ thủy điện của Trung Quốc ăn nước, giữ nước. Còn nếu tư duy theo số liệu tôi tin là các nhà khoa học của chúng ta sẽ có kế sách đúng để cứu ĐBSCL.

 

17,7 triệu dân ĐBSCL vào năm đại hạn dùng hết 40,8 tỷ m3 nước.  Vậy 1,7 triệu nhân dân Campuchia sống dọc hai bờ kênh Funan Techo sẽ sử dụng bao nhiêu nước cho nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và sinh hoạt? Giỏi lắm chỉ có 4 tỷ m3 nước thôi. Một con số vô cùng nhỏ, hoàn toàn không đáng kể. Thế mà các cây đa khoa học Việt Nam bức xúc vì chỉ hiểu biết cảm tính. Truyền thông báo chí được cấp phép đang quá đông, quá mạnh lan truyền “quan điểm của các nhà khoa học lớn, có uy tín của đất nước”, ngang bằng kích động người dân.

 

Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học đang rất có hại cho đất nước:ĐBSCL nước tinh khiết đầy trên đầu,  phủ trắng trời, nước sông Mê Công đổ về đầy dưới chân thế mà vẫn kêu khát, hạn, mặn. Tư duy sống theo kiểu cứ là phải nằm ngửa để người khác rót nước vào miệng mới là đủ. Do vậy khi nghe tin Campuchia có kế hoạch xây kênh đào Funan Techo lấy nước từ sông Mê Công là dẫy nẩy lên phản đối và  quan ngại. Mặc dù ngày 7/5, báo chí Campuchia dẫn lời Phó thủ tướng Campuchia Sun Chanthol năn nỉ thuyết phục Việt Nam “Lượng nước được chuyển hướng đi chỉ bằng một giọt nước trong xô". Các cây đa khoa học Việt Nam vẫn còn nghi kỵ, vì có thể họ  còn lấy nước phục vụ cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt cho vùng ven dọc kênh. Vì nếu chỉ cần ít nước thì lấy từ sông Bassac là đủ, tại sao phía Campuchia nối kênh đào đến tận sông Mê Công nữa? Đồng nghĩa với Campuchia sẽ lấy nước từ cả hai đầu nguồn của sông Tiền và sông Hậu, đến 30% tổng lượng nước của cả hai sông, chặn đứng sự phát triển của ĐBSCL. Các nhà khoa học Việt Nam không cần biết là trong xô nước đổ vào sông Tiền và sông Hậu ấy Việt Nam chỉ sở hữu có 11%. Còn lại Trung Quốc chiếm 16%, Myanmar 2%, Thái Lan 18%, Lào 35%, Campuchia 18%.

 

Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học đang rất có hại cho đất nước: Các cây đa khoa học Việt Nam thừa nhận số liệu trung bình nhiều năm cứ mỗi giây có 15.000m3 nước sông Mê Công chảy vào ĐBSCL. Nhưng họ vẫn nói “nhưng”!  Họ cho rằng vì lưu lượng chảy về là phân bổ rất không đều, trong mùa mưa (rainy season) thì rất cao; và mùa khô (dry season) thì rất thấp. ĐBSCL cần nước về mùa khô, hạn, mặn xuất hiện vào mùa khô, hãy nói về mùa khô đi!.

Theo tôi về mùa khô cũng là vô cùng, vô cùng nhỏ. Trên website của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang có đăng 3 thông tin cốt lõi sau: Vào mùa lũ là 24.000m3/s, mùa kiệt là 5.020m3/s. Về nước ngầm, toàn tỉnh có trữ lượng khai thác tiềm năng kỹ thuật là 815.471m3/ngày (tương đương 297 triệu m3/năm). Hai số liệu về nước sông Mê Công là hợp lý, vì trung bình cộng của nó là cho toàn năm, gần bằng 15.000m3/s là số liệu của Ủy hội sông Mê Công quốc tế. Nếu chúng ta lấy 5.020m3/s nhân với 5 tháng mùa khô, nhân tiếp với 30,5 ngày, nhân tiếp 24 giờ và 3.600 giây sẽ được 66,14 tỷ m3 nước trong mùa kiệt. Cộng với 8 tỷ m3 nước mưa tinh khiết nữa sẽ được 74,14 tỷ m3 nước cho mùa kiệt. Trong khi toàn năm hạn lịch sử 2015-2016 toàn ĐBSCL đã dùng 40,8 tỷ m3 nước để phát triển, hãy nhớ là cho cả năm, bao gồm cả mùa mưa. Báo chí đăng chụp ảnh một số nơi kênh, mương, đồng ruộng khô nứt nẻ, thực sự là đau lòng, trong khi nước ngọt tràn ngập trên đầu và dưới chân, chưa cần tính đến nước ngầm dưới đất. Các cây đa khoa học Việt Nam và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cứ muốn là nước phải đổ đúng miệng, đổ chệch là không đồng ý, nên kiên định kết tội cho các đập thủy điện ở thượng nguồn, ngoại trừ 15 đập hồ thủy điện của Việt Nam tại sườn Tây của Tây Nguyên.

 

Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học, đang rất có hại cho đất nước: Kênh đào Funan Techo Campuchia (làm tròn số) dài 180km, rộng 80m, sâu 5m, nhân lại với nhau cho thể tích chứa nước là 72 triệu m3. Kênh có 3 đập và âu tầu chặn ở hai đầu và ở giữa. Khi kênh hoàn thành, lấy nước một lần đầu là đầy, trong khoảng 1g20 phút. 72 triệu m3 là con số vô cùng, vô cùng nhỏ so với số lẻ 3 tỷ m3 của tổng 473 tỷ m3 nước. Hãy bỏ đi và tặng cho bạn Campuchia 72 triệu m3 nước ban đầu này.

 

Còn trong quá trình vận hành, bạn nói sẽ lấy 5m3/s quanh năm. Nếu đem chia cho 15.000m3/s sẽ được 0,05%, có nghĩa là vô cùng, vô cùng nhỏ, không đáng kể, không đáng kể. Vì vậy trong Thông báo (Notification) bạn không có nghĩa vụ phải mổ xẻ 5m3/s sử dụng cho những mục đích gì (bao nhiêu cho giao thông thủy, bao nhiêu cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt), vì nó quá nhỏ, quá bé.

Các cây đa khoa học Việt Nam nghi là ít. Phía bên Campuchia sẽ phải lấy thêm để phục vụ cho công, nông nghiệp và sinh hoạt dọc hai bên kênh, phải đến 30% lượng nước của sông Mê Công. Tức là 30% x 15.000m3/s = 4.500m3/s là số nước sẽ nghi cho bạn lấy đi.

 

Bạn thông báo là sẽ lấy 5m3/s. Nếu chúng ta vô tư tăng gấp đôi (tăng 100%) cho bạn sẽ là 10m3/s; vẫn thực sự là VÔ CÙNG BÉ NHỎ SO VỚI  4.500m3/s. Đúng là  trí tưởng tượng của các cây đa khoa học Việt Nam vô cùng vĩ đại. Suy nghĩ cảm tính, dẫn đến sự tưởng tượng kinh hoàng. Suy nghĩ này đồng nghĩa với nghi ngờ bạn nói dối, không trung thực.

Về toán học chúng ta hoàn toàn có thể ví 15.000m3/s như 01 giọt nước. Nhân dân Campuchia sẽ lấy đi có 0,05%  giọt nước, về bản chất là tài sản của họ, thế mà các cây đa khoa học Việt Nam và truyền thông báo chí quyết không tha. Căng thẳng đã lên cấp chính trị. Tôi nghĩ hòa bình, hữu nghị với nhân dân Campuchia là tài sản vô giá đối với nhân dân Việt Nam, không thể đánh đổi, hy sinh vì 0,05% giọt nước.

Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học, đang rất có hại cho đất nước: Hội nghị diên hồng về ĐBSCL tại Cần Thơ từ 26-27/9/2017 và cho đến nay, các cây đa khoa học Việt Nam luôn đổ lỗi cho sự gia tăng hạn mặn tại ĐBSCL là do các đập thủy điện ở Trung Quốc và Lào đã ăn nước, giữ nước. Họ viết “Lào với tham vọng là bình điện của Châu Á”. Các tòa báo lớn liên tục không ngừng nghỉ tăng âm, khuyếch đại kết tội Lào và Trung Quốc. Tin phản khoa học được lan tỏa kinh hoàng. Ngày 01/6/2020 một tập thể nhân sĩ, trí thức tinh hoa (elite) của đất nước ký tên trong bản kiến nghị “HÃY CỨU LẤY ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG gửi tới bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam và ông Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng nước CHXHCN Việt Nam. Trong bản kiến nghị họ đã viết “Việt Nam không thể di chuyển ĐBSCL đi xa người láng giềng xấu bụng Trung Quốc”.

 

 

Những suy nghĩ thể hiện sự ung thư nặng nặng về khoa học chính trị của những nhân sĩ, trí thức elite của đất nước. Cuộc chiến tranh Việt – Mỹ kéo dài 20 năm, với nhiều triệu người chết, đất nước bị bom đạn Mỹ tàn phá nặng nề, nhưng Bác Hồ chưa bao giờ nói xấu nhân dân Mỹ hay coi  nhân dân Mỹ là kẻ thù. Trái ngược, Bác đã luôn trân trọng cám ơn tình cảm hữu  nghị của nhân dân Mỹ giành cho Việt Nam.

 

Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học, đang rất có hại cho đất nước: Vì trong khoa học thủy điện, hoàn toàn không tồn tại khái niệm đập hồ thủy điện ăn  nước và giữ nước, gây hạn cho hạ lưu. Thực tế cũng không tồn tại một đập hồ thủy điện nào ăn nước, giữ nước cả. Trên thế giới cũng không tồn tại một chuyên gia thiết kế đập thủy điện để ăn nước và giữ nước. Trong mọi dự án thiết kế đập hồ thủy điện, phần mục đích, mục tiêu của nhà máy thủy điện luôn được viết lên đầu tiên. Giống nhau gần như 100% cho tất cả các nhà máy thủy điện. Đó là đa mục tiêu: Phục vụ sản xuất điện, chống lũ cho miền xuôi, điều hòa dòng chảy, phục vụ cho canh tác nông nghiệp, giao thông đường thủy kết hợp du lịch, điều hòa khí hậu cục bộ.

 

100% các hồ thủy điện phục thuộc vào nguồn nước mưa hay tuyết rơi xuống lưu vực, tạo nên vô vàn nguồn nước nhỏ, con suối nhỏ đổ vào sông, suối lớn và vào hồ lớn. Khi mà trời nhiều ngày không mưa, đương nhiên các con suối nhỏ sẽ “chết”. Nước trong hồ thủy điện phải về mức “chết”. Máy phát điện phải ngừng. Lòng sông ở hạ lưu sẽ phải phơi lòng, trơ đáy. Vậy khi thấy ở hạ lưu sông bị phơi đáy, ruộng đồng khô hạn nứt nẻ, kính mong các cây đa khoa học đừng đổ lỗi cho đập hồ thủy điện ăn nước và giữ nước. Đặc biệt là tại vùng ĐBSCL cứ vào mùa khô hạn là các cây đa khoa học Việt Nam và truyền thông báo chí lại kiên định đổ lỗi cho các đập hồ thủy điện Trung Quốc, cách xa đến 3.500km.

 

Khi họ được giải thích và thông hiểu là mực nước trong đập thủy điện không được phép vượt ngưỡng an toàn để tránh vỡ đập, họ lại nghĩ ra kiểu nghi ngờ là Trung Quốc vận hành thủy điện theo kiểu đóng – mở - đóng – mở - đóng – mở để găm và giữ nước. Ví dụ, vào mùa khô họ đóng cửa xả nước vào tua bin điện, dừng sản xuất điện. Nước sẽ tích lại ở trong hồ. Khi này ĐBSCL ở hạ lưu sẽ bị hạn nặng hơn. Khi mực nước hồ cao chạm mức nguy hiểm vì bảo vệ, an toàn đập, họ sẽ mở cửa xả nước, phát điện, sẽ có nước chảy về hạ lưu. Các cây đa khoa học Việt Nam tưởng tượng ra kiểu vận hành các đập hồ thủy điện Trung Quốc ăn nước và giữ nước rất ngây ngô và kỳ lạ như vậy.

 

Từ khi xuất hiện đập hồ thủy điện đầu tiên cho đến nay, trên thế giới có vô vàn đập hồ thủy điện đã được xây dựng, nhưng tuyệt nhiên chúng ta không thể tìm thấy một đập hồ thủy điện nào được xây dựng với mục đích ăn nước, trữ nước để gây hạn hán cho hạ lưu. Chưa có một lãnh đạo nước nào lại ngu ngốc và Chí Phèo đến vậy. Chỉ có các cây đa khoa học Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học nên mới suy diễn  như thế. Ôm chân Mỹ đánh nhau với Trung Quốc vì mấy giọt nước và hạt phù sa nguồn gốc là của họ sẽ là hủy diệt dân tộc Việt Nam.

 

Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học, đang rất có hại cho đất nước:

Ung thư nặng đeo đẳng kéo dài. Đến ngày mới đây 23/5/2024, trong cuộc họp báo thường kỳ, khi được đề nghị bình luận về thông tin một số chuyên gia cho rằng 14 đập thủy điện trên dòng chính sông Mê Công đang gây ra nguy cơ cạn kiệt dòng chảy và làm giảm lượng trầm tích chảy đến vùng hạ nguồn, góp phần làm tình trạng hạn mặn và sạt lở tại ĐBSCL ngày càng trầm trọng, phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Đoàn Khắc Việt cho biết "Mekong là dòng sông chung xuyên biên giới và chảy qua nhiều quốc gia. Là quốc gia hạ nguồn, Việt Nam rất quan tâm đến tác động xuyên biên giới và khả năng tích nước của các công trình thủy điện trên dòng Mekong".

 

Vì các cây đa khoa học Việt Nam không suy nghĩ dựa trên số liệu, hiểu biết chỉ theo cảm tính, kiên định quan điểm ĐBSCL bị khô hạn là do các đập thủy điện ở Trung Quốc và Lào, đặc biệt về mùa khô. Họ chứng minh để bảo vệ quan điểm đó rất thô sơ, ngắn gọn: “Đấy, cái hồ nó giữ nước trước mặt chúng ai cũng nhìn thấy. Giả sử mỗi hồ găm giữ 01 tỷ m3 nước, mười hồ là găm giữ 10 tỷ m3 nước rồi, nên hạ lưu bị hạn là đương nhiên. Ngoài ra vào mùa khô nhà máy thủy điện được vận hành theo kiểu đóng – mở - đóng – mở là găm, giữ nước rồi”.

 

Tư duy găm giữ 01 tỷ m3 trong hồ là rất ngây ngô. Vì họ quên mất là ngày khai trương, khánh thành đập thủy điện, 01 tỷ m3 nước đã được dẫn chảy vào hồ tạo nên một mức nước nhất định theo thiết kế để sản xuất điện. Sau đó là nước chảy vào hồ từ thượng nguồn là luôn có, lớn hay bé hoàn toàn phụ thuộc vào thời tiết nắng, mưa. Còn nước chảy ra để sản xuất điện luôn được vận hành theo một qui trình nghiêm ngặt nhằm đạt các mục tiêu đề ra của một dự án thủy điện.

 

Các cây đa khoa học Việt Nam không biết là qui trình vận hành đập hồ thủy điện Việt Nam là một văn bản pháp lý do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Do vậy, qui trình vận hành các đập hồ thủy điện ở Trung Quốc, hay Lào cũng là một văn bản pháp lý do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành. Nên họ không thể vận hành tùy tiện theo kiểu đóng – mở - đóng – mở để găm, giữ nước gây hại cho ĐBSCL.

 

Liên quan đến dòng sông Mê Công và ĐBSCL, các cây đa khoa học Việt Nam không biết thông tin là từ sườn Tây của Tây Nguyên có hai con sông là Sesan và Srepok chảy vào miền Đông Bắc Campuchia, đóng góp 11% nước từ phía Việt Nam. Trên con sông Sesan nằm trong tỉnh Kon Tum và Gia Lai, tận dụng chênh lệch chiều cao của đồi núi, phía Việt Nam đã xây 8 đập hồ thủy điện bậc thang. Cụ thể: Tại Quyết định  số 215/QĐ-TTg, ngày 13/02/2018 Thủ tướng Chính phủ ký ban hành qui trình vận hành liên hồ chứa thủy điện trên lưu vực sông Sesan, gồm Thượng Kon Tum, Đăk Bla 1, PleiKrông, Ialy, Sê San 3, Sê San 3A, Sê San 4 và Sê San 4A

Trên con sông Srepok thuộc tỉnh Đắk Lắk phía Việt Nam đang vận hành 6 đập hồ thủy điện, cụ thể TĐ Buôn Tuôr Sar, TĐ Buôn Kuôp, TĐ Hòa Phú, TĐ Đray H’ling, TĐ Sêrêpôk 3, và TĐ Sêrêpôk 4. Theo quy hoạch đã được duyệt, đập chắn sông thứ 7 là Đrăng Phôk, hồ sơ thiết kế đã xong, sẽ là đập cuối cùng trên sông Sêrêpôk. Tổng công suất 7 nhà máy thủy điện bậc thang này là 819 MW.

 

Các cây đa khoa học Việt Nam cứ nghĩ là các đập hồ thủy điện bậc thang của Trung Quốc ăn nước và giữ nước. Họ không hề biết một thông tin là trong tất cả các qui trình vận hành một đập hồ thủy điện, qui định hàng đầu, số một là đảm bảo an toàn đập trong mùa mưa cũng như mùa khô. Vì thảm họa vỡ đập toàn thế giới đều biết. Đập Hòa Bình nếu do “tức nước” mà vỡ thì Hà Nội sẽ đi bay.

Ngay đến các đập hồ thủy điện trên sông Se San tại vùng khỉ ho, cò gáy, thế mà tại Quyết định  số 215/QĐ-TTg có qui định bảo vệ, an toàn cho đập tới mức kinh khủng, tôi không thể tưởng nổi. Phải vận hành đập sao cho đập phải an toàn với cơn mưa siêu lớn, siêu khủng, siêu đại hồng thủy của vùng, lớn nhất trong 5.000 năm. Nói đơn giản là an toàn đập phải là số 1, hàng đầu và bằng mọi giá.  Nên quan điểm đập hồ thủy điện ăn nước, giữ nước, vận hành kiểu đóng – mở, đóng – mở thực sự là ngây ngô. Buồn là quan điểm “khoa học rởm” này lại được báo chí khuyếch đại trở thành chân lý, củng cố và bồi đắp mối hận thù mù quáng đối với người dân Trung Quốc.

 

Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học, đang rất có hại cho đất nước: Ủy hội sông Mê Công quốc tế thường xuyên và liên tục cung cấp thông tin về dòng chảy. Tại báo cáo State of the Basin report 2018, SOBR, cụ thể: Từ giai đoạn 2000 – 2017 bình quân lưu lượng nước hàng năm của con sông Lan Thương, từ các đập hồ thủy điện phía Trung Quốc đổ vào Lào chảy về xuôi:

a) Vào MÙA KHÔ đã tăng lên 35%

b) Vào MÙA MƯA lại giảm 31%

Quá tuyệt vời, quá lý tưởng đối với ĐBSCL nơi khát nước vào mùa khô và thừa nước vào mùa mưa. Việt Nam cần phải cám ơn Trung Quốc. Hiện tượng này đã có từ lâu và sẽ tiếp tục tồn tại dài lâu. Các cây đa khoa học Việt Nam, nhất là Ủy ban sông Mê Công Việt Nam đã mù về hai số liệu này, dẫn đến suy nghĩ rất cảm tính.

 

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã bị ung thư nặng về khoa học, đang rất có hại cho đất nước: Tại Cần Thơ từ 26-27/9/2017 là Hội nghị diên hồng cứu ĐBSCL do Thủ tướng Chính phủ chủ trì, có sự tham dự của các đại biểu, chuyên gia quốc tế. Tại hội nghị, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trình báo cáo về “Sạt lở bờ sông, bờ biển đầy tưởng tượng và chém gió. Vì là Bộ quản lý Nhà nước về vấn đề này, nên quan chức tự coi mình là người hiểu biết cao nhất, khoa học nhất về “Sạt lở bờ sông, bờ biển”. Họ tự coi mình như quan tòa phán quyết các vấn đề về nguyên nhân. Trong đó luôn có việc qui kết tội cho các đập hồ thủy điện của Trung Quốc ở thượng nguồn ăn phù sa, giữ phù sa. Tôi nghĩ nếu chỉ nhìn hiện tượng bằng mắt, mà không nhìn bằng đầu thì bị ung thư nặng khoa học là chắc chắn. Dưới đây là một số quan sát, có tính qui luật  của tôi về vấn đề “Sạt lở bờ sông, bờ biển” tại ĐBSCL:

  • ĐBSCL cách đây hàng vạn năm là biển, được bồi lắng bằng cát, phù sa tích lại. Do vậy, nền móng hình thành nên toàn ĐBSCL hiện nay là cát, phù sa và nước ngầm. Đồi núi thấp, là đuôi kéo dài của dải Trường Sơn giáp ranh với Campuchia, từ Long An, qua Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang.
  • Cát, phù sa và nước là những vật liệu hoàn toàn không kết dính, rất rời rạc. Dưới tác động của nước mưa, dòng chảy là trôi. Còn xây nhà ven sông mà không kè bờ sông thì chắc chắn 100% là sẽ đổ nhà. Do vậy dân  nghèo thường dựng nhà tre nứa, gỗ mà thôi.
  • Đã ngàn năm ông cha ta chứng kiến cảnh sạt lở bờ sông, bờ biển và sẽ tiếp tục trong rất nhiều năm tới. Có nghĩa là có hay không có đập hồ thủy điện trên sông Mê Công, sạt lở bờ sông, bờ biển vẫn luôn có. Do vậy các cháu học sinh lớp 9 cũng phản đối khi kết tội sạt lở bờ sông, bờ biển hiện nay cho các đập hồ thủy ở Trung Quốc.
  • Đã ngàn năm ông cha ta thường nói “Dòng sông bên lở, bên bồi” hay “Dòng sông hết bồi lại lở”. Đã là qui luật rồi nên đổ lỗi cho đập hồ thủy điện ở tận Trung Quốc là rất vô duyên. Phù sa là từ đất, là tài sản thiêng liêng của họ, đâu phải của mình mà đòi. Cứ vì phù sa mới phát triển nên con cháu người Việt sẽ mãi nặng nợ với người Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào và Campuchia.
  • Việt Nam cũng có tất cả 15 đập hồ thủy điện,  lắng đọng phù sa đổ vào sông Mê Công. Muốn lấy phù sa để chống sạt lở thì hãy lên các lòng hồ đó mà đào mang về sử dụng là yên lành nhất. Không nên đánh nhau, đổ máu vì một hạt phù sa, về bản chất là của người ta.
  • Trên thế giới không tồn tại một đập hồ thủy điện nào mà không lắng đọng phù sa. Sự lắng đọng này tuyệt nhiên không liên quan đến việc sạt lở bờ sông, bờ biển cả. Cho dù Bộ  Khoa học và Công nghệ có cấp 1.000 tỷ đồng, cho tập thể 1.000 nhà khoa học ưu tú nhất của đất nước, đến từ đa lĩnh vực tập hợp lại, nghiên cứu trong hai năm, cũng không thể chứng minh được một cách khoa học, thuyết phục là sạt lở bờ sông, bờ biển ở ĐBSCL có liên quan tới các hạt phù sa bị giữ lại ở các đập hồ thủy điện Trung Quốc.
  • Thủy điện là nguồn năng lượng tái tạo, sẽ tồn tại và sống muôn đời, đã phục vụ loài người vô cùng hữu ích nhiều trăm năm rồi, từ khi các nhà khoa học Châu Âu phát minh ra điện. Xin hãy đừng phê phán thủy điện nữa.
  • Thủy điện đã và sẽ mãi mãi là nguồn năng lượng xanh, sạch và rẻ nhất so với nhiệt điện than, điện khí thiên nhiên (natural gas), khí ga hóa lỏng (LNG), xăng dầu, điện hạt nhân, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối (biomass).
  • Không một loại hình điện nào có thể so sánh với thủy điện về tính năng đa mục tiêu: Ngày 20/8/1971 mực nước sông Hồng lên 14,3 m ở Hà Nội, cao hơn báo động III đến 1,3 mét. Để cứu Hà Nội, Bộ Chính trị đã cho phá đê ở Chương Mỹ (Hà Tây) để phân lũ bớt. Cùng thời điểm đó, Gia Lâm và Bắc Ninh cũng vỡ đê. Trận “Đại hồng thủy lịch sử năm 71” đã làm hơn 600 người thiệt mạng. Đó là lý do chính để ngày 4/10/1971, ông Podgornưi, Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô bay sang Việt Nam. Ngày 7/10/1971 ký Thông báo chung và Hiệp định hợp tác Việt Nam - Liên Xô về Thủy điện Hòa Bình. Mục tiêu chống lũ cho Hà Nội: Phải chịu được lũ khổng lồ với lưu lượng 37.800 m3/giây, có thể 200 năm mới xẩy ra một con lũ như vậy. Tổng chi phí 1,5 tỷ USD, tương đương 1.450 tấn vàng thời gian đó, được Liên Xô viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam. Sau khánh thành, miền Bắc thừa ứ điện. Sự thừa ứ này là căn cứ khoa học và thực tế để Chính phủ khẩn trương xây dựng đường dây cao thế 500kV Bắc – Nam.

 

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã bị ung thư nặng về khoa học, đang rất có hại cho đất nước:

Tại Hội nghị Diên hồng cứu ĐBSCL ở Cần Thơ từ 26-27/9/2017 báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về “Sạt lở bờ sông, bờ biển” là độc hại. Vì là tổng chỉ huy của ngành Nông nghiệp Nông thôn mà nói sai, hướng dẫn, dạy bảo cả 100 triệu người dân sai về khoa học là quá độc hại và nguy hại.

Tôi nghiên cứu các tài liệu của Hội nghị thấy có một thông tin vô cùng quí, do bà  TS. Anjali Acharya, WB, phát hiện ra cho Việt Nam, chỉ từ một slide trong báo cáo của bà. Cụ thể slide dưới đây:

 

 

Bờ biển Đông từ năm 1968 (đường đỏ) đến năm 2011 (đường đen), trong 43 năm qua liên tục sạt lở để bồi bờ biển Tây khá nhiều. Nên coi đây là qui luật “Bờ biển Đông lở để bồi bờ Tây”. Tôi tin là vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Người phát hiện là bà TS. Anjali Acharya. Tôi hoàn toàn tin bà. Vì WB có kho tàng ảnh vệ tinh lưu trữ từ nhiều năm. Không một nhà khoa học Việt Nam nào để ý đến qui luật này. Phần đất lở ở bờ biển Đông tương ứng với sự mất đi của dải rừng ngập mặn do chúng ta tự phá hủy, phục vụ cho mục đích nuôi trồng hải sản xuất khẩu.

 

Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học, đang rất có hại cho đất nước: Vì các cây đa khoa học Việt Nam không nhìn thấy giá trị sinh thái của mùa nước nổi:

Thiên nhiên đã ngàn năm ban tặng cho hạ lưu sông Mê Công 3 ĐẠI HỒ ĐIỀU HÒA là Biển hồ Tonle Sap ở Căm pu chia; Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên ở ĐBSCL. Tổng diện tích hai đại hồ điều hòa trên đất Việt Nam gần 1,2 triệu ha.

Gọi là đại hồ ĐIỀU HÒA vì vào mùa mưa, nước từ thượng nguồn đổ về được tích trữ vào 3 đại hồ, GIẢM NGẬP cho các vùng còn lại. Vào mùa khô, nước từ 3 đại hồ lại nhả ra từ từ, đổ về xuôi cho người dân ở 8 tỉnh ven biển có nước sử dụng và góp phần CHỐNG HẠN VÀ ĐẨY MẶN.

 

Đại hồ điều hòa Đồng Tháp Mười có diện tích 697.000 ha, trải rộng trên ba tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng tháp; trong đó tỉnh Long An chiếm quá nửa. Đồng Tháp Mười được bao quanh bởi a) Các giồng đất cao ven biên giới Việt Nam – Căm Pu Chia; b) Đê tự nhiên dọc bờ tả sông Tiền về xuôi đến thành phố Mỹ Tho; c) Từ Mỹ Tho theo quốc lộ 1A, qua thị trấn Tân Hiệp (Tiền Giang) đến thành phố Tân An (Long An) rồi đến sông Vàm Cỏ Đông. Từ đây ngược trở lại biên giới với Campuchia (Nguồn vi.wikipedia.org/wiki/).

 

Đại hồ điều hòa Tứ giác Long Xuyên là vùng đất hình tứ giác trũng, ngập nước có diện tích rộng 489.000 hecta, nằm trên địa phận của tỉnh Kiên Giang, An Giang. Bốn cạnh của tứ giác này: Bao gồm a) Biên giới Việt Nam – Campuchia; b) Đường ven biển từ thị xã Hà Tiên đi Rạch Giá; c) Kênh Rạch Sỏi đi Vàm Cống hay đường quốc lộ 80 đến sông Hậu tại Long Xuyên; d) từ Long Xuyên theo đường ven sông Hậu ngược lên thị xã Châu Đốc.

Vùng tứ giác Long Xuyên vào mùa nước nổi thường ngập sâu trong nước từ 1,5 đến 3,5 mét (Nguồn: Tienphong.vn ngày 11/01/2017 06:51 bài “Sản xuất lúa 3 vụ khiến nông dân nghèo đi”).

 

Mùa nước nổi về ban tặng cho người dân những thứ sau:

  1. Nhiều phù sa, dinh dưỡng chăm bón cho các loài động thực vật thủy sinh.
  2. Nhiều loài tôm cá, như cá linh, cá sặc, cá rô phi, rô đồng, cá lóc, tôm càng xanh, cua, ốc, lươn, chạch rất đa dạng và phong phú. Mọi chất thải của tôm cá, lắng xuống trở thành những bùn dưỡng chất cho vụ lúa năm sau bội thu.
  3. Nhiều loài cây rau, hoa khác nhau, đặc biệt là khi nước nổi thì hoa lá cũng nổi. Điển hình cây bông điên điển, bông súng, hẹ nước là những hoa rau đặc sản của ĐBSCL.
  4. Những loài động, thực vật kể trên lại là nguồn thức ăn tự nhiên cho chăn nuôi ngan, vịt.
  5. Với những vùng đất phèn, chua, mặn thì nước ngọt về giúp cho việc thau chua, rửa mặn, làm vệ sinh đồng ruộng, chuẩn bị tốt cho vụ cấy lúa tiếp theo.
  6. Phù sa và những chất thải động thực vật trên đồng lại là những nguồn phân hữu cơ cho lúa hoặc rau màu vụ tiếp theo. Cây lúa đã được chăm bón bằng loại “phân chuồng”, hoàn toàn không phải phân hóa học như đạm, lân, kali. Như vậy, Mùa nước nổi đã tạo nên một nền nông nghiệp thuần khiết hữu cơ, thực sự là nông nghiệp sinh thái.

Ðất Tháp Mười cò bay thẳng cánh // Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm...

Ai về dưới miệt Tháp Mười // Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn

Mùa nước lên chống xuồng bẻ súng // Ngắt điên điển vàng, câu cá rô non

Này em gọi lũ về thôi // Rạ rơm chờ cá quẫy đuôi lên đồng

Muốn ăn mắm sặc bần chua // Chờ mùa nước nổi ăn cho đã thèm

Gió đưa gió đẩy, về biển ăn còng, về sông ăn cá, về đồng ăn cua

 

Người dân đã ngàn năm sống no đủ, hạnh phúc giản đơn với 2 mùa nước này. Mùa nước kiệt thì đồng lúa vàng mênh mông thơm phức. Vào Mùa nước nổi thì tôm, cá, cua, ốc, các loại rau, hoa về đầy đồng. Chúng tự sinh sôi nẩy nở, tự phát triển theo một qui luật của tự nhiên là “chuỗi và mạng lưới thức ăn” (food chain and food web). Con người không phải chăm sóc, không phải nuôi trồng, không phải bón phân hóa học và phun thuốc trừ sâu, người dân chỉ có nô nức đi đánh bắt, thu hoạch (tương tự như ra biển đánh bắt hải sản).

 

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã bị ung thư nặng về khoa học, đang rất có hại cho đất nước: Vì các cây đa khoa học Thủy lợi Việt Nam rất ghét mùa nước nổi. Họ bảo đây là mùa LŨ, quyết hủy diệt nó để trồng lúa 3 vụ. Ngàn năm ngày xưa, người dân vùng này không có khái niệm LŨ, chỉ gọi là MÙA NƯỚC NỔI, nước dâng lên từ từ. Vì chưa bao giờ có lũ làm chết trâu, bò, lợn gà và nhà cửa cuốn trôi như ở miền Bắc hay miền Trung. Khái niệm LŨ do các nhà khoa học Thủy lợi ngoài Bắc mang vào. Trong dân ca, cao dao hay các tác phẩm văn học nói về ĐBSCL chúng ta không thể tìm thấy từ “LŨ”. Diện tích ĐBSCL 40.600km2 cộng với diện tích đồng bằng Campuchia, khoảng 181.000km2 (2/3 đất nước Campuchia) tạo nên vùng bằng phẳng thoát được lượng nước khổng lồ và nhanh chóng ra biển.

Người dân ở miền Bắc và miền Trung nghe nói đến LŨ là sợ, phát hoảng, bỏ của chạy thoát thân. Do vậy các cây đa khoa học thủy lợi phải đưa LŨ vào ĐBSCL, “hù dọa” các cấp lãnh đạo mới có nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều công trình, dự án thủy lợi chống LŨ.

 

Những năm 1995 – 1997 các cây đa khoa học Việt Nam đưa ra nhiều kế sách để xóa bỏ LŨ, cứu Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười. Có nhà khoa học TS. Phó Viện trưởng Viện Địa lý và Tài nguyên Tp. HCM táo bạo hiến kế đào kênh cắt ngang dải Trường Sơn tại Quảng Trị để rút 300 tỷ m3 nước sông Mê Công ra biển Đông. Trí tưởng tượng thứ hai là rút nước của đại hồ điều hòa Đồng Tháp Mười vào hệ thống sông Vàm Cỏ đổ ra biển Đông, và của Tứ giác Long Xuyên đổ ra biển Tây.

Năm 1996 tôi rất ấn tượng hình ảnh trên TV đen trắng chiếu cảnh viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và công nghệ Quốc gia (nay là Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), mặc áo phao, cùng với các cộng sự của mình đi trên cano cao tốc lướt sóng trên kênh Vĩnh Tế mênh mông nước, vạch hướng thoát lũ ra biển Tây.

 

Đương nhiên ngay sau đó đề tài nghiên cứu khoa học “Thoát ra biển Tây” được Bộ  Khoa học và Công nghệ cấp tiền và Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng khẩn trương cấp kinh phí thực hiện dự án đào các kênh T4, T5, T6 và nạo vét kênh Vĩnh Tế nối sông Châu Đốc với sông Giang Thành đổ ra biển Tây. Các dự án được khẩn trương thực hiện với tốc độ kỷ lục và hoàn tất năm 1998.

Vì hầu hết các đề tài nghiên cứu khoa học của Việt Nam đều được nghiệm thu đánh giá là xuất sắc. Nên đương nhiên đề tài “Thoát lũ ra biển Tây” phải cao hơn rất nhiều. Đó là giải thưởng “Nhân tài đất Việt” vào năm 2012. Báo chí hết lời ca ngợi thành công và hiệu quả kinh tế - xã hội, mang lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân hai tỉnh An Giang và Kiên Giang. Buồn là sau khi giải thưởng đã được trao và chia phần là cuộc tranh cãi, mổ xẻ quyết liệt, được báo chí đăng tải rất nhiều về “Đạo văn, lấy ý tưởng của người khác, tranh công. Người trực tiếp làm đề tài lại không được hưởng, người không tham gia lại được ăn”.

 

Dự án này theo tôi là ung thư về khoa học vì mấy Thực tế/Sự thật sau đây: Tại website của UBND tỉnh An Giang có mục giới thiệu về điều kiện tự nhiên của tỉnh có nguyên văn câu “An Giang là 1 trong 2 tỉnh ĐBSCL có đồi núi, hầu hết đều tập trung ở phía Tây Bắc của tỉnh, thuộc 2 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn. Đây là cụm núi cuối cùng của dãy Trường Sơn. Nhóm đất đồi núi chủ yếu phân bố tại 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên”. Thông tin này cho tôi kiến thức về địa hình ĐBSCL: Vùng biên giới Việt Nam – Campuchia của 4 tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang là cao nhất và thấp dần ra biển Đông và biển Tây.

 

Ngày xưa, ông cha ta chỉ biết đọc biết viết, nhưng đủ khả năng để hiểu hai kiến thức cơ bản của khoa học thoát nước, chống ngập, chống hạn:

a) “Nước chảy chỗ trũng”, từ cao xuống thấp. Khi nước không thoát được thì tắc cống ở đâu đó, phải mang cuốc mang xẻng đi thông.

b) Nước không thể chảy ngược được. Muốn nước từ kênh, mương thấp hơn chảy lên đồng ruộng thì phải dùng gầu tát nước.

 

Buồn là đất nước mình công tác quản lý về độ cao của các công trình xây dựng (nhà cửa, cầu, cống, đường) là vô chủ. Người dân và các doanh nghiệp tự biên, tự diễn, tự làm thoải mái. Nếu không có sự quản lý Nhà nước về độ cao, tôi tin là thủ đô Hà Nội sẽ còn dài lâu phải đương đầu với vấn nạn ngập úng sau mưa. Quan chức quản lý thoát nước Hà Nội có tài là bất cứ chỗ nào mưa mà gây ngập thì qui tội cho Trời mưa quá lớn, cơn mưa lịch sử, mặc cho vô lý sờ sờ ra trước mắt. Ví dụ “Hơn 200 nhà ở liền kề hồ Tứ Liên, Tây Hồ, Hà Nội vẫn ngập sâu một tuần sau mưa ngày 29/5/2022”.

 

Từ Thực tế/Sự thật cơ bản trên, nên dự án “Thoát LŨ ra biển Tây” với các công trình nạo vét kênh Vĩnh Tế và đào xây mới các kênh T4, T5, T6 nối với kênh Vĩnh Tế rõ ràng là dẫn nước tăng thêm vào sâu trong các vùng của huyện Tịnh Biên và Tri Tôn tỉnh An Giang; huyện Kiên Lương và Hòn Đất của tỉnh Kiên Giang, thau chua, rửa phèn. Một đặc điểm cơ bản của đất vùng này là ngậm phèn, tính axit rất cao, độ pH rất thấp từ 2-3. Như vậy là sau triển khai dự án kết quả lại trái ngược với điều mà họ mong muốn.

 

Chứng minh thêm cho điều này, tình cờ tôi đọc được một công trình nghiên cứu thực hiện năm 2003, được quốc tế tài trợ, cho một tập thể 5 đơn vị trường, viện, với sự tham gia của 9 chuyên gia. Chủ trì là Trường đại học Khoa học tự nhiên Tp. HCM, với chủ biên là TS. Trần Triết. Báo cáo có tiêu đề “Kết quả khảo sát đất ngập nước vùng Hà Tiên – Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang 2003”, gồm 332 trang. Tại trang 28 về chế độ thủy văn vùng này, nguyên văn như sau  “Giai đoạn lũ lên: Độ sâu ngập giảm dần từ phía Đông 1,5 – 2 m sang phía Tây dưới 1 m, và từ Bắc xuống Tây Nam. Từ năm 1998, bắt đầu sự hoạt động của một số kinh tạo nguồn lớn mới đào: T5, T4, T6, T3 và kinh Vĩnh Tế được nạo vét mở rộng, lưu lượng nước lũ từ sông Hậu đổ vào tăng lên đáng kể.”. Đây là bằng chứng nữa cho thấy sự thất bại của dự án “Thoát LŨ ra biển Tây”.

 

Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học, đang rất có hại cho đất nước: Vậy làm cách nào để xóa bỏ hai đại hồ điều hòa là Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên để có thể trồng lúa 3 vụ quanh năm? đưa Việt Nam trở thành cường quốc số 1 thế giới về xuất khẩu gạo. Phải vượt qua người Thái, người Indonesia. Thế giới phải kính nể Việt Nam về xuất khẩu gạo.

Một tư tưởng khoa học vĩ đại mới lại nảy sinh. Đó là “Xây dựng các đê bao chắn lũ”. Lãnh đạo đất nước nghe thấy có lý. Thế là bao nhiều tiền của được Nhà nước và nhân dân bỏ ra để xóa bỏ mùa nước nổi, XÓA BỎ HAI ĐẠI HỒ ĐIỀU HÒA BẰNG CÁC ĐÊ BAO, biến chúng thành vùng trồng lúa 3 vụ quanh năm, kiên quyết không cho đất nghỉ. Nếu thiếu dinh dưỡng sẽ có phân hóa học. Nếu bị sâu bệnh sẽ có thuốc trừ sâu.

 

Ngân sách địa phương không đủ, lãnh đạo các tỉnh vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên đôn đốc chạy lên Trung ương xin vốn, kèm theo huy động sức dân nữa, trên tinh thần Nhà nước bỏ 7, nhân dân góp 3. Kết quả là hàng vạn lô ruộng với  57.000km đê bao hình thành (nguồn: GS.TSKH Đào Xuân Học: Giải pháp thuỷ lợi cho vùng ĐBSCL thích ứng với BĐKH, báo cáo tại Hội nghị Diên hồng cứu ĐBSCL ngày 26 – 27/9/2017 tại Cần Thơ). Ngay sau đó, đương nhiên Việt Nam trở thành cường quốc xuất khẩu gạo trên Thế giới. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn khẳng định “Kinh tế - xã hội ĐBSCL đang phát triển, thu nhập của người dân được nâng cao, đời sống ấm no, hạnh phúc”.

 

Đê bao, cống đập, cấy lúa 3 vụ quanh năm và kỳ tích xuất khẩu gạo được báo chí hết lời ca ngợi nhiều năm. Hóa ra là lỗ. Vì tháng 5/2015, nữ chuyên gia quốc tế Tong Yen Dan đã công bố công trình nghiên cứu của mình “Phân tích những Chi phí và Lợi ích của hệ thống đê bao tôn cao ở Đồng bằng sông Cửu Long”. Nghiên cứu này được Chương trình Môi trường và Kinh tế Đông Nam Á tài trợ (The Economy and Environment Program for Southeast Asia, Văn phòng đặt tại Philippines) “A Cost – Benefit Analysis of Dike Heightening in Mekong Delta” May, 2015. https://ideas.repec.org/p/eep/report/rr20160320.html)

Tác giả đã được sự trợ giúp của Trường Đại học Cần Thơ và đã chọn An Giang là tỉnh điển hình của ĐBSCL để nghiên cứu trong 1 năm. Kết quả được lượng hóa rất cụ thể, qui hết ra tiền: Đối với Nhà nước thua lỗ 47.765 nghìn đồng/ha. Đối với nông dân, thua lỗ 3.381 nghìn đồng/ha. Mỗi hộ gia đình có bao nhiêu ha trồng lúa cứ thế mà nhân lên sẽ ra tổng thiệt hại. Đã vài thập kỷ rồi chúng ta nổi tiếng là đánh giá theo cảm tính. Đối với Nhà nước tiền thiệt hại là tiền chùa, không sao cả. Đối với nhân dân mới thực sự là đau.

 

Việt Nam đã bị ung thư nặng về khoa học, đang rất có hại cho đất nước: Với tổng diện tích gần 1,2 triệu ha, hai đại hồ điều hòa vào mùa nước nổi nhận vào từ từ, bình quân chỉ cần 1,5m, có thể chứa khoảng 15 tỷ m3 nước phù sa màu mỡ, cùng vô vàn tôm, cua, cá, tép. Ngày nay vào mùa nước nổi, tổng lượng nước đó sẽ đi đâu, về đâu? Chúng sẽ theo sông, kênh, rạch chảy đi khắp nơi. Đích đến cuối cùng sẽ là biển cả. Đồng nghĩa với lượng khổng lồ nước ngọt quí bị đổ đi, thực sự lãng phí tài nguyên nước.

Trên đường lan tỏa ra biển, còn phải cộng thêm với nước mưa tại vùng này, sẽ gia tăng ngập úng cho các tỉnh “miền xuôi”, ví dụ Cần Thơ, Hậu Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre v.v.. Sự gia tăng ngập úng này cũng là không thể đảo ngược, vĩnh viễn vì hai đại hồ điều hòa đã bị xóa sổ. Đánh đổi sự ngập úng vốn có của Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên bằng ngập úng của các tỉnh “miền xuôi”.

 

Chưa hết, đó mới chỉ là sự gia tăng ngập úng vào mùa mưa do xóa sổ 2 đại hồ điều hòa, đẩy 15 tỷ m3 nước phải trôi đi, cộng với lượng mưa tại vùng. Còn yếu tố nền móng toàn vùng sụt lún 30 – 50cm nữa, có nghĩa là mực nước biển đã “dâng cao” thêm 30 – 50cm. Ngập úng này là ngập úng vĩnh viễn, không thể đảo ngược, do con người gây ra. Thậm chí tới mức không cần mưa, trời nắng, chỉ riêng triều cường đã đủ gây ngập rồi. Từ Cần Thơ trở về xuôi, các tỉnh duyên hải sẽ liên tục và thường xuyên chứng kiến cảnh ngập úng vào mùa mưa.

Vào mùa khô, mùa nước kiệt, do hai đại hồ điều hòa đã bị triệt tiêu, làm gì còn nước nữa để nhả về xuôi, góp phần cung cấp nước ngọt, ngăn triều, đẩy mặn tại các cửa sông như ngàn năm đã có. Thời tiết Elnino, không mưa, hạn hán và xâm nhập mặn nặng nề lại bị cộng hưởng thêm bởi không còn nước từ hai đại đồ điều hòa đổ về. Sự cộng hưởng, gia tăng xâm nhập mặn này cũng là vĩnh viễn, không thể đảo ngược. Xâm nhập mặn sẽ thường xuyên hơn và vào sâu hơn. Ranh giới mặn 4g/L có thể vào sâu 50 – 60km. Vì hai đại hồ điều hòa mà thiên nhiên ban tặng, đã bị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn bức tử.

Nhấp chuột xem tiếp PHẦN HAI

 

 

 

ÔNG DONALD TRUMP SÁP NHẬP CANADA VÀ ĐẢO GREENLAND
ÔNG DONALD TRUMP SÁP NHẬP CANADA VÀ ĐẢO GREENLAND
NGHẸT THỞ VÀ UỐNG NƯỚC
NGHẸT THỞ VÀ UỐNG NƯỚC
NGUYÊN NHÂN GỐC RỄ CỦA 13 NĂM NỘI CHIẾN SYRIA
NGUYÊN NHÂN GỐC RỄ CỦA 13 NĂM NỘI CHIẾN SYRIA
TỔNG THỐNG HÀN QUỐC YOON SUK YEOL SẼ PHẢI VÀO TÙ
TỔNG THỐNG HÀN QUỐC YOON SUK YEOL SẼ PHẢI VÀO TÙ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NÊN NHÌN XA HƠN
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NÊN NHÌN XA HƠN