Hà Nội, ngày 3/8/2019
Kính gửi:
Đồng kính gửi:
|
Ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Ông Nguyễn Thành Phong, Chủ tịch UBND Tp. HCM
Sở Xây dựng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Khoa học và Công nghệ Sở Tài nguyên và Môi trường
|
(Về giải pháp dùng LU chống ngập là khoa học,
hiệu quả, nhân văn và sinh thái)
Tôi tên là Nguyễn Đức Thắng, cán bộ về hưu năm 2008, có quá trình công tác khoảng hơn 10 năm tại Viện Kỹ thuật quân sự Bộ Quốc phòng, 10 năm tại Viện Khoa học Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) và hơn 10 năm cuối tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Tôi đã có bài viết “Cần trả lại chân lý khoa học cho kết luận về nguyên nhân ngập úng khu vực thành phố Hồ Chí Minh” gửi ông Bí thư Thành ủy và Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh (ngày 30/8/2018). Trong đó tôi đã chỉ ra 5 nguyên nhân cơ bản gây nên ngập úng Tp. HCM và tương ứng đề xuất 5 giải pháp “mềm”, phi công trình để chống ngập. Ngày 22/11/2018 Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có công thư số 3245/SNN-CCTL trả lời tôi, đánh giá như sau “Những giải pháp mềm phi công trình nêu trên thật sự rất phù hợp và cần thiết, đặc biệt với một thành phố đang hướng tới thành phố thông minh, thân thiện môi trường như thành phố Hồ Chí Minh. Do đó cần phải khẩn trương nghiên cứu để đề ra giải pháp chống ngập phù hợp với điều kiện thực tế của thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới”. Ngày 12/3/2019 ông Trần Vĩnh Tuyến, Phó Chủ tịch UBND thành phố đã ký công văn số 839 giao Sở Xây dựng chủ trì cùng với Sở Giao thông Vận tải, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Trung tâm điều hành chương trình chống ngập nước thành phố triển khai, cụ thể hóa 5 giải pháp mềm, phi công trình mà tôi đề xuất cho thành phố.
Tuy nhiên 5 giải pháp đó đều tập trung cho HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC, ĐẦU RA CỦA BÀI TOÁN CHỐNG NGẬP. PGS.TS Phan Thị Hồng Xuân (Trưởng Khoa Đô thị học, trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) đã đề xuất biện pháp dùng LU chống ngập CẮT GIẢM NƯỚC ĐẦU VÀO CỦA BÀI TOÁN CHỐNG NGẬP, theo cách tiếp cận phân tán, phi tập trung. Theo tính toán của tôi, có thể cắt giảm được 40 – 50% lượng nước đầu vào. Thật là tuyệt vời! Bài toán chống ngập cân bằng nước đầu vào – đầu ra đã có lời giải rất hoàn chỉnh. Nếu được triển khai, Tp. HCM chắc chắn hết ngập úng cục bộ sau mưa. Tôi xin phép chứng minh chi tiết như dưới đây:
Ngày 13/7/2019, trên các mạng xã hội và báo chí truyền thông cả nước đã “ném đá” PGS.TS Phan Thị Hồng Xuân vì đã đề xuất biện pháp dùng LU để hứng nước mưa chống ngập cho Tp. HCM.
Chị đã cho biết: “Tôi rất buồn trước việc bị phản ứng, chế giễu. Đây không phải là sáng kiến do tôi tự nghĩ ra mà đã được các chuyên gia của JICA (Nhật Bản) nêu trong chương trình lắng nghe trao đổi vừa qua. JICA cho rằng nếu TPHCM vận động mỗi hộ gia đình xây một bể chứa nước 1m3 thì vừa góp phần chống ngập, vừa tiết kiệm nước sạch. Không chỉ Nhật mà nhiều nước khác cũng dùng. Đây là giải pháp mềm trong thích ứng với biến đổi khí hậu”.
I. NHỮNG LÝ DO BÁO CHÍ PHẢN ĐỐI LÀ KHÔNG THUYẾT PHỤC:
Dư luận xã hội thường ném đá theo hiệu ứng Domino, khi một người chê, tất cả những người khác cùng đổ chê theo, không cần biết rằng cá nhân mình có đầy đủ thông tin, chứng cứ khoa học để phản bác.
Ảnh: Đề xuất thu hứng nước mưa của các nước TBCN sinh thái
Đọc nhiều bài báo, tôi thấy chỉ có vài lý do, căn cứ phản bác như dưới đây:
Ba lý do trên là không thuyết phục, không phải là những căn cứ khoa học. Ngôn từ “dùng LU chống ngập” được nói theo cách bình dân, mộc mạc. Các cháu thiếu nhi có thể hiểu là cái chum, vại, hũ là quá bé. Nhưng đối với các nhà khoa học, người lớn phải hiểu là để CHỐNG NGẬP rõ ràng phải là những bồn, bể chứa đủ lớn ở các hộ gia đình, khu dân cư. Đó là cách chống ngập phân tán, phi tập trung, rất phù hợp đối với thực trạng hiện nay của Tp. HCM. Hầu hết các hộ gia đình đều có bồn, bể chứa nước máy, có nắp đậy kín, do vậy không thể có bọ gậy, loăng quăng để sinh muỗi. Về lý do nhà xây dựng trên 50 - 70m2 đất, trường hợp nhà ở trong chung cư, cao tầng thì bó tay cũng là không thuyết phục, sẽ được trình bầy cụ thể ở phía dưới.
II. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHỮNG HỒ ĐIỀU TIẾT LỚN LÀ CẢM TÍNH, KHÔNG KHẢ THI
1. Hầu hết các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia chống ngập thiên về xây dựng những hồ điều tiết lớn ở công viên, khu đô thị. Quan điểm tập trung, (trái ngược với phân tán) hoành tráng, qui mô lớn được ưu tiên. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 752/QĐ-TTg ngày 19/6/2001 phê duyệt “Qui hoạch tổng thể hệ thống thoát nước thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020” là duy ý chí, chủ quan. Bộ Xây dựng là tác giả của Quyết định này. Tại Quyết định có một số khái niệm cơ bản sai về khoa học. Toàn văn Quyết định này luôn được đăng trên website của Công ty TNHH MTV Thoát nước Đô thị Tp. HCM (http://udc.com.vn/vi/van-ban/quyet-dinh/quyet-dinh-so-752qd-ttg/Di0nzc4S6UW-dr_3CDirfQ). Tại “Điều 1, điểm 3 và mục c) Qui hoạch tổng thể hệ thống thoát nước mưa: Trong đó có qui hoạch xây dựng hồ điều hòa tại khu vực Đông Bắc thuộc huyện Thủ Đức có tổng dung tích 100.000 m3, với diện tích mặt bằng khoảng 40.000 m2”. Chính xác phải là hồ điều tiết nước, không phải là điều hòa nước. Tại Quyết định này còn đưa ra khái niệm lưu vực thoát nước mưa và lưu vực thoát nước bẩn khác lạ so với Thế giới. Ngoài ra Thế giới chỉ phân biệt nước mưa chảy bề mặt với nước thải (sinh hoạt và công nghiệp), surface runoff water với wastewater (domestic and industrial), không phân biệt thoát nước chảy bề mặt với nước bẩn. Vì nước mưa tinh khiết sau lăn đường, lăn chợ thành nước bẩn mất rồi.
Đối với hồ điều tiết, lượng nước đích thực chảy vào hồ chủ yếu là nước mưa chảy bề mặt trong phạm vi gần xung quanh vào hồ. Nếu hồ nào có cống xả thải đổ vào nữa sẽ bao gồm nước mưa ở khu vực khác và nước thải sinh hoạt. Nhiều hồ, để đảm bảo không bị ô nhiễm đã thu gom nước từ các cống xả thải dẫn đổ vào sông, kênh, rạch hoặc đưa về trạm xử lý nước thải. Như vậy, tuy là hồ điều tiết lớn, nhưng lượng nước thực “hấp thụ” để chống ngập là rất ít.
Cho đến nay đã sau 18 năm rồi mà hồ “điều hòa” tại huyện Thủ Đức nói trên, nay huyện đã thăng cấp lên quận, vẫn chưa ra đời.
2. 30 năm phát triển nóng vừa qua, rất nhiều ao, hồ, sông, kênh, rạch, vùng đất trũng là những nơi chứa nước, tiêu thoát lũ đã phải bị san lấp, thu hẹp để nhường chỗ cho làm nhà, làm đường và các khu đô thị mới. Ở nội đô, trung tâm thành phố, cứ đâu có khoảng đất trống, sân vườn với cây xanh là sẽ bị thay thế bằng các tòa nhà cao tầng với những căn hộ sang trọng, đắt giá. Chưa hết, trong tương lai những vùng đất trũng, đầm lầy hiện đang còn để tiêu thoát nước, chống ngập cũng sẽ phải bị san lấp để xây các khu đô thị mới, cụ thể là vùng Đông Nam Tp. HCM như huyện Cần Giờ. Vì tại Quyết định số 24/QĐ-TTg ngày 06/01/2010, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt điều chỉnh Qui hoạch chung xây dựng Tp. HCM đến năm 2025, tại Điều 1, điểm 4. Mô hình phát triển và các chỉ tiêu chính: “ - Phát triển thành phố với hai hướng chính là: Hướng Đông và hướng Nam ra biển”.
3. Ngoài ra, giải pháp xây dựng các hồ điều tiết lớn nằm tại vùng nào, chỉ có tác dụng thu hứng nước mưa và nước thải của chính ngay vùng xung quanh nó. Đối với thoát nước cho các quận, huyện khác là không có tác động. Rất khó đào thêm đường cống mới để dẫn nước từ những vùng bị ngập úng lân cận đến. Cụ thể Hà Nội có những hồ tự nhiên lớn như Hồ Tây, hồ Yên Sở, hồ Thống Nhất nhưng tuyệt nhiên không hề có tác động chống ngập cho nhiều điểm ngập lụt lân cận. Những điểm ngập úng lại có ở rải rác khắp nơi. Điều này là đúng cho mọi đô thị ở trên Thế giới. Những khu phố có đất để xây hồ điều tiết lại không bị ngập úng. Ngược lại nơi ngập úng lại không có đất để xây hồ.
4. Thêm vào đó tác động chống ngập của các hồ điều tiết lớn cũng là HỮU HẠN cho chính bản thân vùng xung quanh nó. Cụ thể, khi không mưa, mực nước trong hồ luôn ở một mức nào đó và giảm dần rất chậm, vô cùng nhỏ vì lượng nước mất đi do bốc hơi và thẩm thấu xuống đất là rất ít (tốc độ bốc hơi nước phụ thuộc vào nhiệt độ, gió và diện tích bề mặt thoáng; SGK Vật Lý 6). Ví dụ, nếu hôm nay có mưa, nước đổ vào hồ dâng lên ngang mép hồ. 3 ngày sau lại tiếp tục có mưa. Hồ điều tiết này trở nên bó tay, đầu hàng vì không thể nhận tiếp nước được nữa. Như vậy, dung tích hữu ích của hồ thường chỉ bằng ½ dung tích thực của hồ. Nếu hai cơn mưa liền nhau, cách nhau chỉ một vài ngày thì dung tích hữu ích chống ngập còn nhỏ nữa, thậm chí là không đáng kể.
Hồ Yên Sở được đầu tư và đã hoàn thành là hồ điều tiết thoát nước chủ lực ở phía Nam Hà Nội, cũng sẽ trở nên bó tay, chịu thua chỉ trong một ngày mưa to, gió lớn, nếu như không có trạm bơm siêu tốc, siêu khủng (tổng công suất 90m3/giây) lắp đặt tại chân đê sông Hồng để bơm nước từ hồ xuyên qua chân đê đổ vào sông Hồng thoát tiếp về xuôi. Hồ điều tiết sẽ hoàn toàn không có tác dụng nếu như nước vào hồ không có đường lui, thoát tiếp.
5. Tháng 8/2017, hồ điều tiết ngầm đầu tiên được các chuyên gia Nhật giúp xây dựng, do công ty Sekisui tài trợ. Địa điểm tại nhà Thiếu nhi, quận Thủ Đức. Hồ có khả năng tiếp nhận 109m3 nước được xây dựng trong khuôn viên 13m x 14m. Rất tiếc là không có thông tin về chi phí đầu tư xây dựng, đơn giá cho 1m3 lưu trữ, nhưng chắc là khá đắt.
Báo chí đưa tin, “để nhân rộng mô hình này, Trung tâm Chống ngập TP đã tổ chức khảo sát tại hiện trường và cùng đơn vị tư vấn xây dựng phương án thực hiện tại 5 vị trí: Công viên Hoàng Văn Thụ (quận Tân Bình), Công viên Làng Hoa Gò Vấp (quận Gò Vấp), Công viên Trần Thiện Chánh (quận 10), dải phân cách đường Phan Xích Long (quận Phú Nhuận), khuôn viên cây xanh Công an phường 25 và vỉa hè hẻm 48 đường Điện Biên Phủ (quận Bình Thạnh)”.
Nước mưa chảy tràn mặt đường, mặt phố (surface runoff water), xung quanh lân cận thu về hồ điều tiết này. Điều kiện tối quan trọng để hồ này luôn đảm bảo công năng tích nước 109m3, đó là hệ thống lọc, chặn rác, loại bỏ đất cát phải rất tốt, nếu không chỉ sau vài năm sử dụng rác nhỏ và đất cát sẽ tích đọng nhiều lên, giảm thiểu công năng của hồ, vì không thể chui vào hồ thau rửa, nạo vét, làm sạch hồ. Điều kiện nữa là khi không mưa, phải bơm nước đang chứa ra khỏi hồ, để giải phóng công năng cho hồ, tiếp nhận nước từ cơn mưa sắp đến. Hồ này là thích hợp ở những nước mà đường, phố văn minh, sạch như lau nhẵn bóng và không rác thải, thậm trí cả đầu lọc thuốc lá.
Theo tôi giải pháp dùng LU chống ngập là khoa học, hiệu quả, nhân văn và sinh thái, như những phân tích dưới đây:
III. KHOA HỌC và HIỆU QUẢ:
1. Những qui luật, chân lý, thực tế giản dị trong thoát nước, chống ngập:
“Lưu lượng nước thoát của toàn bộ tuyến cống được quyết định bởi đoạn cống yếu nhất”. Qui luật này trái ngược với suy nghĩ thông thường của chúng ta, là đoạn cống to nhất mới quyết định, là chủ đạo thoát nước của toàn tuyến. Ví dụ có một tuyến cống ngầm thoát nước, ngoằn ngèo, gấp khúc, dài 1000m, với đường kính của ống là 1m. Ví dụ chỉ cần một đoạn 2m nào đó trong toàn tuyến bị sập, gẫy do cũ nát, hay do độ cao các đáy cống bị so le, khấp khểnh, hay do bị tắc nghẽn rác thải đến 70% đường kính của ống, thì lưu lượng nước thoát của toàn tuyến này sẽ giảm xuống, chỉ còn 30%, mặc cho toàn bộ 998m cống còn lại là trơn tru, thông thoáng. Từ chỗ tắc trở về phía đầu cống lên mặt đường sẽ ngập ứ nước.
Mực nước biển có độ cao được toàn Thế giới qui chuẩn là 0m. Từ năm 2010 cho đến năm 2100, bình quân mực nước biển dâng hàng năm do hậu quả của biến đổi khí hậu là 3 – 6mm/năm. Bình quân biên độ dương của đỉnh triều biển Đông khu vực Tp. HCM là 1,5 – 1,7m. Không được nhầm lẫn giữa hai khái niệm mực nước biển dâng do BĐKH với triều cường. Bản chất hai hiện tượng này rất khác nhau. Website chính thức của UBND Tp. HCM cung cấp những thông tin địa hình như sau (đăng thứ 5, ngày 03/11/2011):
1) Vùng trũng nhất thuộc về phía Nam và Đông Nam, có độ cao 1m – 2m, gồm các quận 7, 8, huyện Bình Chánh, Nhà Bè và Cần Giờ.
2) Vùng cao trung bình 5 – 10m, gồm chủ yếu các quận ở Trung tâm thành phố, nội thành cũ, một phần quận 2, toàn quận 12, quận Thủ Đức và huyện Hóc Môn.
3) Vùng cao nhất là 10 – 25m, nằm ở phía Bắc - Đông Bắc và một phần Tây Bắc, bao gồm huyện Củ Chi, quận Thủ Đức, quận 9 (có đồi Long Bình, cao nhất, đạt 32m).
Như vậy, chỉ có vùng 1 trũng nhất ngập úng mới bị tác động của triều cường. Các vùng còn lại bị ngập úng hoàn toàn không liên quan đến triều cường. Thủ đô Hà Nội không liên quan đến biển, không có triều cường thế mà vẫn ngập úng thường xuyên vào mùa mưa, nổi tiếng với câu ca “Hà Nội mùa này phố cũng như sông”. Sau 100 năm nữa, mực nước biển dâng do BĐKH tuyệt nhiên không ảnh hưởng đến ngập úng vùng 2 và 3 của Tp. HCM.
Trong giai đoạn 10 năm (2005 – 2015), theo tính toán của tôi, độ sụt lún nền móng toàn Tp. HCM là 24cm. Bình quân 2,4cm/năm. Độ sụt lún này là không đồng đều, khác nhau cho các quận, huyện, vẫn đang và sẽ tiếp tục (chi tiết tại bài viết “Cần trả lại chân lý khoa học cho kết luận về nguyên nhân ngập úng khu vực thành phố Hồ Chí Minh”)
Chất lượng hệ thống cống ngầm liên tục đi xuống theo năm tháng. Cát, sỏi, bùn đất (chưa kể đến rác thải) liên tục bồi lắng trong các cống ngầm. Người dân không coi cống rãnh là một hợp phần của cuộc sống. Độ cao đáy các cống ngầm là so le, khấp khểnh, tự do không ai quản lý. Thông, móc cống, cải tạo, sửa chữa sâu bên trong cống ngầm là gian nan, vất vả. Từ đó dẫn đến năng lực thoát nước của hệ thống cống mới xây nhanh chóng xuống cấp. Kết quả tổng thể dẫn đến ngập úng cục bộ trong đô thị sẽ luân phiên thay nhau, nay chỗ này, mai chỗ khác. Vì vậy, đối với Tp. HCM việc chỉ trông cậy chủ yếu vào xây mới và cải tạo hệ thống thoát nước của thành phố là khó có lối thoát. Do vậy, đề xuất “dùng lu chống ngập”, rất phân tán, phi tập trung chính là lời giải, lối thoát cho ngập úng cục bộ thành phố Hồ Chí Minh.
2. Tính toán cân bằng lượng nước vào và lượng nước ra:
Bài toán chống ngập là bài toán phổ thông đơn giản, không khoa học cao siêu, đừng phức tạp hóa vấn đề. Đó thực sự chỉ là TÍNH TOÁN CÂN BẰNG LƯỢNG NƯỚC VÀO VÀ NƯỚC RA. Dưới đây một ví dụ để minh họa. Việc lấy tròn số cho dễ tính, dễ hiểu, hoàn toàn không ảnh hưởng đến bản chất vấn đề, khi áp dụng cụ thể vào cho quận, huyện hay toàn thành phố Hồ Chí Minh:
Số liệu thực tế:
Tại bảng thống kê tổng lượng mưa hàng năm của Tp. HCM (ảnh bên dưới), cho thấy tổng lượng mưa cao nhất vào năm 2007 là 2.340mm, trong đó cao nhất là tháng 9 gần 500mm.
Số liệu giả định:
Tính toán tiêu thoát nước:
Ta có thể bỏ qua lượng nước thải sinh hoạt. Vì tổng số 60m3 (150 lít x 400 người) trong một ngày được “phân bổ” từ 5g00 sáng đến 9g00 tối, tác động này là không đáng kể, mặc dù là có giờ cao điểm (sáng và chiều tối).
Với cơn mưa vừa 40mm/giờ: Tổng lượng nước mưa của lưu vực trong một giờ là 10.000m2 x 0,04m = 400m3. Cơn mưa này hoàn toàn không gây úng ngập, thoát hết sau mưa . Tuy nhiên, nếu 50% lượng nước được hứng (200m3) và lưu trữ trong bể phục vụ cho sinh hoạt, còn lại lượng nước mưa thoát vào cống rãnh chỉ có 200m3. Lượng nước mưa hứng được này là hữu ích cho người dân sử dụng trong 3,3 ngày (= 200m3 : 60m3).
Với cơn mưa rất to là 70mm/giờ: Tổng lượng nước mưa rơi vào lưu vực sẽ là 10.000m2 x 0,07m = 700m3. Cơn mưa này sẽ gây ngập úng. Sau cơn mưa, 400m3 nước thoát được, còn lại 300m3 nước dềnh lên mặt đường, mặt ngõ, bình quân là 6cm (300m3 : 5.000m2 = 0,06m), sẽ thoát hết sau khoảng 45 phút nữa. Tuy nhiên, nếu tổng lượng nước của các mái che, nóc nhà hứng được là 350m3 lưu trữ sử dụng cho sinh hoạt, sẽ hoàn toàn không còn nước để gây ngập úng.
3. Tính toán tổng thể tích các bể lưu trữ (với hệ số an toàn cao, có dư) chống ngập cho cơn mưa 70mm/giờ liên tục 2 giờ liền, 140mm: Khả năng này khoảng 30 - 50 năm mới có 1 lần ở Tp. HCM. Tổng lượng nước mưa rơi xuống toàn lưu vực là 1.400m3 sẽ được “phân bổ” như sau: Trong 1 giờ đầu tiên tiêu thoát được 400m3. Từ giờ thứ 2 nước bắt đầu ứ đọng dần dần. Cho đến hết giờ thứ hai, tổng lượng nước tiêu thoát 800m3, còn lại 600m3 nước (1.400m3 – 800m3 = 600m3) gây úng ngập sân, vườn, đường, ngõ, cây xanh, là 12cm (600m3 : 5.000m2 = 0,12m). Nếu muốn sau 2 giờ mưa, mặt đường, phố, mặt ngõ phải nhẵn sạch, không còn nước, phải có tổng các bể lưu trữ 600m3.
IV. NHÂN VĂN VÀ SINH THÁI:
Ngày xưa ông cha ta vẫn hứng nước mưa bằng máng tre, máng trúc. Nước mưa chỉ để nấu ăn, đun nước pha trà sen thơm ngào ngạt. Con cháu mà dùng nước mưa để tắm giặt sẽ bị các cụ la rầy. Rửa rau, vo gạo, tắm, giặt phải dùng nước hồ, nước ao. Nước hồ, nước ao đem vào nấu chín, đun sôi thì không một con vi trùng, vi rút, vi khuẩn nào có thể sống nổi mà gây hại. Nước luôn sôi ở 100oC, trong khi hầu hết vi khuẩn đều chết sạch ở 75oC. Những vùng sâu, vùng xa không có nước máy thì nước sông, suối, ao hồ luôn là nước quí. Khi nắng hạn, trời không mưa, hồ cạn, sông suối cạn thì nước vét từ đáy những vũng nước nhỏ cũng trở nên quí.
Nếu con người không làm ô nhiễm không khí, trước tiên những lá phổi của con người sẽ luôn được hưởng thụ không khí trong lành tươi mát nhất, và những giọt nước mưa sẽ là tinh khiết và thanh tao nhất. Vì nước mưa được sinh ra từ những hơi nước bốc lên ở ngoài đại dương và biển cả mênh mông. Nước máy muốn đạt độ tinh khiết như hơi nước đại dương, biển cả phải cho vào thiết bị chưng cất 2 lần. Công nghệ chưng cất, có nghĩa là nước khi được đun sôi sẽ nhanh chóng bốc hơi. Hơi nước nóng này phải chảy trong các thiết bị làm lạnh, sẽ ngưng tụ lại thành nước cất. Nước cất hai lần được đóng vào các ống, lọ thủy tinh làm nước để tiêm, hay chạy thận nhân tạo. Hoặc phải dùng công nghệ lọc thẩm thấu ngược (RO, Reverse Osmosis) có lưới lọc như một cái “rây” phân tử để có được nước siêu tinh khiết (H2O) như hơi nước ngoài đại dương, biển cả.
Chất lượng nước trong các bồn, bể chứa nước máy hiện nay có khi còn kém nước mưa. Nước ngầm sạch hơn nước mặt (sông, ngòi, ao, hồ) nhưng 30 năm qua chúng ta rút ruột lòng đất, đến nay đã hết rồi. Hầu hết các đô thị ở Việt Nam đang phải xử lý nước mặt để có nước máy cung cấp cho người tiêu dùng. Bể chứa nước máy, nếu 2 năm mới thau rửa, khi đó dưới đáy bể thực sự là một lớp bùn. Nếu khuấy lớp này lên ta thu được 100% là nước bùn đen.
Vậy tại sao chúng ta lại không trân trọng nước mưa? Cho dù ngày nay nước mưa có bị ô nhiễm do ô nhiễm không khí gây ra, nhưng chất lượng nước mưa chắc chắn là tốt hơn so với chất lượng nước mặt, ví dụ nước hồ Dầu Tiếng hay sông Sài Gòn mà Tổng công ty cấp nước Sài Gòn đang bỏ ra nhiều ngàn tỷ đồng để khai thác. Nước mưa hiện nay vẫn đáp ứng được đầy đủ các QCVN cho nước sinh hoạt gia đình, để đun nấu cho ăn uống. Còn hơn thế nữa, nếu hứng nước mưa bằng dụng cụ sạch, sau bắt đầu cơn mưa khoảng 3 - 5 phút, thì nước đó có thể uống ngay được, không cần đun sôi. Vậy tại sao chúng ta không nghĩ cách thu hứng để sử dụng? Nước mưa là nước tinh khiết của Trời, tại sao chúng ta lại vô tâm, vô tư để nước ấy lăn đường, lăn chợ, lăn vào những cống ngập bùn đất và rác thải nên không thoát nổi phải ứ dềnh lên gây ngập úng.
Nước có trước sự sống. Nước có trước, con người có sau. Có nước rồi mới hình thành vi trùng, vi khuẩn. Vi trùng, vi khuẩn sau tiến hóa thành con người văn minh như ngày nay. Chỉ bằng những thiết bị rất đơn giản, các nhà khoa học đã dễ dàng xác định khoảng từ 70 đến 85% khối lượng con người chúng ta (hay động vật sống) được cấu tạo từ nước. Có nghĩa là khô chất khoảng 15 - 30%.
Cách đây khoảng 100 năm, chủ nghĩa tư bản (CNTB) trên Thế giới còn là CNTB hoang dã, khai thác tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái một cách vô tội vạ. Tuy nhiên, trong khoảng 100 năm gần đây họ đã nhận ra rằng CNTB SẼ SỤP ĐỔ NẾU PHÁT TRIỂN THEO KIỂU HỦY HOẠI MÔI TRƯỜNG SINH THÁI, KHÔNG ĐỂ GIÁ CẢ PHẢN ÁNH SỰ THẬT SINH THÁI (Oystein Dahle, cựu Phó Chủ tịch Tập đoàn dầu khí EXXON, Na-Uy). CNTB không giẫy chết, sụp đổ vì bản chất bóc lột những người nghèo, bóc lột giai cấp vô sản, như khoa học chủ nghĩa cộng sản đã tiên đoán. 50 năm gần đây, các nước CNTB ở Châu Âu đã chuyển thành CNTB sinh thái. Ngược lại 30 năm qua ở Việt Nam đã và đang hình thành CNTB hoang dã. Tầng lớp những người giầu có, với những dấu chân sinh thái (ecological footprint) khổng lồ đang gia tăng mạnh mẽ. Giới trẻ của chúng ta đang khát khao thực hiện lối sống có dấu chân sinh thái to lớn. Hạnh phúc được hiểu là lối sống tiêu dùng vật chất càng nhiều càng tốt. Trong khi bản chất của các hệ sinh thái lại luôn là mong manh (fragile), yếu ớt, dễ bị hủy hoại.
Có một thực tế mà chúng ta luôn cần ghi nhớ, là 1km2 sinh thái đất nước Trung Quốc chỉ phải nuôi khoảng 145 người, Cămpuchia là 85, Lào là 28, nhưng Việt Nam là 290 người. Còn nữa, chưa hết là 1km2 sinh thái còn phải gánh chịu bao nhiêu tạ gạo, tạ tôm cá, tạ cà phê, hạt tiêu cho xuất khẩu để nhập về những phần mềm ứng dụng (softwares, applications) nặng gần như 0 gam, hay các con chip điện tử vài gam. Tất cả doanh thu xuất khẩu nhiều triệu tấn nông lâm thủy hải sản của Việt Nam không bằng doanh thu xuất khẩu giáo dục của các trường đại học Mỹ. Còn nữa, chưa hết là 1km2 sinh thái còn phải gánh chịu cả FDI (Đầu tư trực tiếp nước ngoài) xi măng, sắt thép, hóa chất, giấy, nhiệt điện than… biến Việt Nam thực sự trở thành một công xưởng của Thế giới. Do vậy, môi trường sinh thái đất nước ta đã bị hủy hoại nhanh chóng chưa từng có. Kết quả là ung thư nghiệt ngã và tuyệt vọng đang đến với mọi gia đình. Mang theo tất cả những gì mà chúng ta “trấn lột” của các hệ tài nguyên sinh thái về Thế giới bên kia.
Diện tích Tp. HCM là 2.095km2. Theo thông tin trên mạng nói chung quỹ đất dành cho phát triển giao thông khoảng 8 – 12%. Giả sử đất cho các khoảng trống, công viên, cây xanh, sông ngòi, kênh rạch, ao hồ khoảng 35 – 38%. Còn lại 50%, tức 1.050km2 là diện tích cho các mái che, mái nhà có máng thu hứng nước mưa, nhưng lại không sử dụng, dẫn chảy vào cống, rãnh. Giả sử cơn mưa lớn trên diện rộng, khắp Tp. HCM trong 1 giờ liên tục, đo được là 70mm (0,07m). Như vậy, diện tích các mái che sẽ thu hứng được 73,5 triệu m3 (= 1.050km2 x 0,07m) nước mưa sạch, vừa để sử dụng rất hữu ích trong cuộc sống, vừa cắt giảm được cần ấy nước đổ vào cống gây ngập úng. Trong khi hàng ngày Tổng công ty nước sạch Sài Gòn cung cấp tối đa khoảng 2,5 triệu m3 nước máy cho toàn thành phố. Vậy không thể nào hiểu nổi một lượng nước sạch to lớn như vậy đã thu hứng rồi lại đổ vào cống rãnh? Vì sao lại lãng phí tài nguyên như vậy?
Để các cây đa khoa học Thủy lợi trị thiên đã đề xuất Tp. HCM bỏ ra gần 230.000 tỷ đồng để xây đê bao, xây cống đập, xây đê biển đẩy nước cống, nước rãnh đến vùng đậm đặc dân cư nhưng nghèo hơn và ngập úng Tp. HCM vẫn hoàn ngập úng. Để Nhà nước phải bỏ ra gần 40.000 tỷ đồng dưới sự lãnh đạo của Bộ Xây dựng xây dựng 3 nhà máy xử lý nước thải lớn nhất của Việt Nam, nhưng vẫn không thể làm sống lại được 5 con sông của Hà Nội và kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè ở Tp. HCM, cho dù chỉ lấy có 1 ngày, trong suốt đời vận hành của dự án. Thất bại chủ yếu là do cách tiếp cận XLNT tập trung, qui mô to lớn. Duy nhất cách tiếp cận thành công ở đây phải là phân tán, phi tập trung.
Cắt giảm được 50% lượng nước mưa đổ vào các cống, kênh rạch, rõ ràng là hiệu quả chống ngập rồi. Hơn hẳn đầu tư gần 230.000 tỷ đồng để xây 25km đê biển với 1 cống (với rất nhiều cánh đóng/mở vì độ rộng của cống đến 2km) ngăn nước biển và 172km đê bao với 12 cống ngăn triều (bịt kín miệng các kênh, rạch, tại những điểm giao cắt với sông Sài Gòn, sông Soài Rạp và sông Vàm Cỏ) và những âu tầu nữa để chống ngập cho Tp. HCM. Đê biển sẽ bịt miệng sông Sài Gòn và Soài Rạp. Những dòng nước với tôm cua, cá ốc đã ngàn năm giao lưu, tự do thông thương giữa kênh, rạch, sông và biển cả nay bỗng dưng bị chặn lại. Dòng nước và tôm, cua, cá, ốc chỉ được đi theo một chiều (chiều ra) vào những giờ nhất định khi các cửa cống mở.
Bảng so sánh hai giải pháp chống ngập, giữa hồ điều tiết công nghệ Nhật Bản với các LU chứa nước, ví dụ cho công năng lưu trữ 1.000m3 nước:
STT |
Nội dung so sánh |
Hồ điều tiết công nghệ Nhật Bản |
Rất nhiều LU |
1 |
Quan điểm chống ngập |
Tập trung |
Phân tán, phi tập trung |
2 |
Bản chất nước lưu trữ |
Nước chảy bề mặt đường, phố, nước bẩn |
Trực tiếp nước mưa, nước Trời rơi xuống các mái che, nóc nhà |
3 |
Chất lượng nước lưu trữ |
Chỉ sử dụng cho mục đích tưới cây |
Tương đương nước máy, sử dụng cho mục đích sinh hoạt. Hơn nước máy vì không có Clo dư. |
4 |
Khả năng đáp ứng của công năng |
Chỉ đáp ứng khi nước thu được phải được bơm tiêu thoát đi. Hữu hạn |
Vì nước mưa không mất tiền mua nên sẽ được ưu tiên sử dụng. Công năng của bể chứa luôn được giải phóng để đón các cơn mưa tiếp theo. Vô hạn |
5 |
Khả năng duy tu bảo dưỡng công trình |
Không có |
Có và quá dễ dàng thuận lợi |
6 |
Có sự tham gia của người dân |
Không có |
Có, dân biết, dân bàn, dân đóng góp, dân làm và dân thụ hưởng |
7 |
Địa điểm, nơi xây dựng |
Khó kiếm. Nơi có đất trống, công viên nhưng lại không bị ngập úng. Nơi bị ngập úng, thì lại không có đất xây hồ. |
Quá dễ, bể chứa ngầm dưới vỉa hè, ngay tại những vùng bị ngập úng. Mang ngay lại hiệu quả đích thực. Nơi nào không ngập thì không cần xây bể chứa. |
8 |
Việc xây cống dẫn nước vào nước ra |
Nếu muốn tiêu nước cho nơi gần khác, cần phải có cống |
Không cần cống vì chỉ lưu trữ nước mưa, nước tinh khiết. |
9 |
Đơn giá cho 1m3 nước lưu trữ |
Có lẽ phải đắt |
Bể xi măng ngầm xây dưới vỉa hè chắc là rẻ. |
10 |
Tiết kiệm tài nguyên nước |
Không có, vì phải bơm nước vào hệ thống cống để thoát tiếp vào kênh, rạch. Có ít, nếu sử dụng cho tưới cây. |
Có 100%. Ý nghĩa tiết kiệm tài nguyên nước là rất cao. Nước mưa thu được sử dụng cho ăn uống và sinh hoạt. |
11 |
Tính nhân văn, sinh thái |
Không có |
Có và rất cao |
PGS.TS Phan Thị Hồng Xuân, tác giả của đề xuất, mới chỉ nghĩ đến góc độ là chống ngập theo cách phân tán, phi tập trung. Tôi trân trọng và đánh giá cao đề xuất này. Đó là giải pháp tôi chưa nghĩ ra, khi tôi đề xuất với UBND Tp. HCM chỉ có 5 giải pháp “mềm”, phi công trình để chống ngập úng tại bài viết “Cần trả lại chân lý khoa học cho kết luận về nguyên nhân ngập úng khu vực thành phố Hồ Chí Minh”
Tại bài viết ấy tôi đã có 4 phát hiện mới, rất quan trọng trong khoa học quản lý thoát nước, mà các nhà khoa học Thủy lợi của ta không biết. Đó là:
Căn cứ vào báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn gửi lãnh đạo UBND Tp. HCM về những kiến nghị, đề xuất của tôi, ngày 12/3/2019 ông Trần Vĩnh Tuyến, Phó Chủ tịch UBND thành phố đã ký công văn số 839 giao Sở Xây dựng chủ trì cùng với Sở Giao thông Vận tải, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Trung tâm điều hành chương trình chống ngập nước thành phố triển khai, cụ thể hóa 5 giải pháp mềm, phi công trình mà tôi đề xuất cho thành phố.
Giải pháp dùng LU chống ngập úng, hay những bể chứa nước mưa phân tán, phi tập trung rất nhân văn, sinh thái, thực sự đáp ứng đầy đủ những tiêu chí của Phát triển bền vững. Tôi xin nhắc lại, với một đất nước đến 1,5 tỷ dân, đông nhất Thế giới như Trung Quốc, nhưng 1km2 sinh thái lãnh thổ của họ chỉ phải nuôi có 145 người thôi, trong khi chúng ta là 290 người, gấp đôi họ. Trung Quốc hiện đang có dư thừa tài chính để đi mua đất đai hay các cơ sở vật chất kỹ thuật ở một số nước khác. Thiếu hụt về khả năng đáp ứng của các hệ sinh thái giữa các quốc gia ngày nay không thể giải quyết bằng chiến tranh xâm lược được. Trong tương lai chỉ có chiến tranh thương mại để giải quyết vấn đề này. Ví dụ, xuất khẩu 1 chiếc smartphone nặng 350 gam chứa đầy những chất xám và trí tuệ trong đó có giá khoảng 500 USD tương đương với hơn 1 tấn gạo xuất khẩu của chúng ta.
Các lãnh đạo chính trị và các nhà khoa học của chúng ta đang nói rất nhiều về nền kinh tế trí thức, xây dựng thành phố thông minh, trí tuệ nhân tạo, cách mạng công nghiệp 4.0; vậy tại sao lại không thực hiện việc nước mưa đã thu được sao không lưu trữ, phục vụ cho nấu nướng, ăn uống, tắm giặt và tưới cây, tưới vườn? đồng thời có tác dụng chống ngập lụt nữa, mà lại lãng phí đổ đi là nguyên nhân chính gây ngập úng?
Nếu coi nước mưa là tài nguyên quí như ông cha ta, chúng ta sẽ có thừa sáng tạo để làm nhiều bể, bồn, nổi và chìm để lưu trữ như nước máy. Chất lượng nước sẽ hết ý khi có dụng cụ tự động đơn giản để 2 hoặc 3 phút đầu cho nước mưa chảy vào cống, bỏ đi. Sau đó là nước sạch thu hứng vào bể, bồn chứa có nắp đậy kín. Thật đáng tiếc khi để một lượng nước sạch to lớn như vậy, thu hứng rồi lại đổ vào cống rãnh làm khổ chính chúng ta.
Chỉ cần chúng ta có một chút tình yêu đối với môi trường và các hệ sinh thái, là chúng ta thừa sức làm được. Người Châu Âu ngày nay rất tự hào, hãnh diện khi lối sống, tiêu dùng của họ tạo ra dấu chân sinh thái bé nhỏ. Tuy nhiên họ lại rất khiêm tốn khi nói rằng, không phải do họ nghĩ ra, mà họ học được tư duy và triết lý sống của người phương Đông ngày xưa, trong đó có ông cha chúng ta, các cụ Việt Nam ngày xưa. Họ cũng nói rằng, những tư duy và triết lý sống lỗi thời ngày xưa của họ thì giới trẻ Việt Nam ngày nay lại đang coi là mốt, tân tiến, hiện đại.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN NHƯ THẾ NÀO? trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo, nền kinh tế trí thức và thành phố thông minh?
Tổng 600m3 nước Trời thu hứng chia cho 100 hộ gia đình. Vậy mỗi nhà cần có bể chứa 6m3. Bố trí như sau: 1 bể chứa 1m3 ở trên cao, sân thượng, đáy bể này nối thông với bể chứa nước máy. Còn lại 5m3 ở dưới tầng trệt. Vì bể chứa nước này là để phục vụ cho mục đích chống ngập và bảo vệ tài nguyên nước, nên thành phố cần hỗ trợ người dân. Cụ thể như sau: Cho phép xây 1 bể ngầm 3 hoặc 4m3 ở dưới vỉa hè đi bộ, ngay trước mặt tiền của nhà, và hỗ trợ 70% kinh phí xây dựng, có kích thước bên trong cụ thể là 1m x 3m x 1,2m (hoặc 1,5m) sâu. Hộ gia đình nào có hoàn cảnh khó khăn, thành phố hỗ trợ 100% kinh phí. Đáy bể nên có độ dốc, chênh lệch hai đầu khoảng 10cm, để tạo điều kiện xuống bể thau rửa, vét nước cặn đáy. 1 hoặc 2m3 nước còn lại người dân sẽ phải tự đầu tư, xây dựng trong nhà mình. Các chuyên gia về cơ khí có thể nghĩ thiết kế phễu thu nước mưa, sao cho 3 phút mưa đầu tiên nước bẩn từ bụi trên các nóc nhà bị gạt bỏ đi cho chảy xuống cống. Sau 3 phút mưa, nước mưa sạch cho chảy vào bể.
Đối với các cơ quan, đơn vị, công ty, viện, trường nghiên cứu, văn phòng, tòa nhà chung cư cao tầng v.v.. lại càng thuận lợi để xây các bể ngầm, vì luôn có sân, vườn, bãi đỗ xe, khoảng đất trống.
Khi người dân yêu thành phố của mình, khi người dân muốn cuộc sống của mình được tiện nghi hơn, không có úng ngập, khi người dân nghĩ đến ông cha ta quí trọng nước mưa, khi người dân nghĩ sẽ giảm được tiền sử dụng nước máy, với một kinh phí nhất định đầu tư cho ban đầu nhưng sẽ sử dụng được lâu dài, khi đó người dân sẽ ủng hộ chủ trương này do UBND thành phố ban hành.
Chúng ta cần luôn nhớ rằng xu thế phát triển của Thế giới trong nhiều lĩnh vực là rất dân chủ, phân tán, phi tập trung. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân thụ hưởng thì làm gì cũng thành công. Lĩnh vực Điện và Năng lượng sẽ chủ yếu là phân tán, phi tập trung. Lĩnh vực xử lý nước thải để cứu 5 con sông của Hà Nội và kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè của Tp. HCM bắt buộc phải phân tán, phi tập trung.
Giải pháp “Dùng LU chống ngập” luôn có HAI MẶT GẮN BÓ HỮU CƠ VỚI NHAU, KHÔNG THỂ TÁCH RỜI NHAU. ĐÓ LÀ CHỐNG NGẬP VÀ NHÂN VĂN SINH THÁI.
VI. KIẾN NGHỊ:
Tôi chân thành cám ơn Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã nhanh chóng chấp thuận, ủng hộ 5 giải pháp “mềm” chống ngập mà tôi kiến nghị ngày 30/8/2018. Sau đó Lãnh đạo UBND thành phố đã ký văn bản giao nhiệm vụ cho các Sở, ban, ngành triển khai. Đó là 5 giải pháp cho TIÊU THOÁT NƯỚC ĐẦU RA. Giải pháp dùng LU chống ngập, cũng có thể gọi là giải pháp “mềm” thứ 6, có mục đích CẮT GIẢM NƯỚC ĐẦU VÀO (40 - 50%) làm quá tải hệ thống thoát nước. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng, nếu 6 giải pháp này được kết hợp với nhau, triển khai thực hiện sẽ là hoàn hảo, chắc chắn Tp. HCM sẽ hết ngập úng.
Những vùng không có ngập úng, việc xây bể ngầm dưới vỉa hè, chứa nước mưa cho sinh hoạt, sử dụng thường xuyên hàng ngày, cũng cần được khuyến khích. Vì đó là cách rất tốt bảo vệ tài nguyên nước. Ngoài ra, đó cũng là cách dự phòng chống ngập cần thiết, vì hệ thống cống thoát nơi này sẽ xuống cấp sau chỉ vài năm nữa. Thu hứng nước mưa tinh khiết cho sinh hoạt cần trở thành chủ trương chung cho cả nước áp dụng.
Từ những phân tích trên tôi xin kiến nghị với UBND Tp. HCM là giao PGS.TS Phan Thị Hồng Xuân (Trưởng Khoa Đô thị học, trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) một đề tài nghiên cứu nhằm triển khai một dự án thử nghiệm đầu tiên cho một tiểu lưu vực thường xuyên bị ngập úng nặng nhất của Tp. HCM. Tên đề tài là “Chống ngập úng cục bộ cho khu vực A bằng các bể chứa nước mưa cho sinh hoạt, phân tán, phi tập trung”. Thời gian nghiên cứu khoảng 1 năm rưỡi. Kết quả của đề tài nghiên cứu sẽ làm căn cứ để xây dựng báo cáo nghiên cứu khả thi cho một dự án đầu tư có cùng tên với đề tài nghiên cứu.
Vì nhân dân Tp. HCM đã nhiều năm cơ cực do ngập úng cục bộ, xu hướng ngày càng tăng nặng, nên tôi khẩn trình các Quí lãnh đạo sớm giao nhiệm vụ nghiên cứu cho tác giả đề xuất giải pháp, để giải pháp sớm đi vào cuộc sống.
Tôi tin chắc vào sự thành công của dự án thí điểm. Dự án sẽ trở nên điển hình và nhân rộng trên phạm vi cả nước đối với những thành phố bị thường xuyên ngập úng sau mưa tương tự Tp. HCM, cụ thể là Hà Nội.
Xin trân trọng cám ơn và mong nhận được ý kiến phản hồi
Nguyễn Đức Thắng, Hà Nội ngày 03/8/2019
Địa chỉ: Điện thoại: Email: ndthangndt@yahoo.com
P/S. Tôi cũng đồng thời là tác giả của những bài viết sau:
Qui hoạch Thủy lợi chống ngập úng khu vực Tp. HCM là phản khoa học và rất có hại cho đất nước.
Chiến dịch đập phá đòi lại vỉa hè cho người đi bộ đã thất bại khi đập nhát búa đầu tiên.
Ba nhà máy xử lý nước thải lớn nhất Việt Nam là phản khoa học và rất có hại cho đất nước.
Chính sách xăng E5 là phản khoa học và rất có hại cho đất nước.
Nghịch lý khoa học Luật thuế bảo vệ môi trường là rất có hại cho đất nước.
Không nên lấy cá sống khỏe trong bể sinh học là đảm bảo nước thải an toàn, đạt chuẩn.
Kính thưa Bộ KH&CN và Bộ Y tế, thực sự oan cho phenol
Ngành ngoại thương không nên dịch Business Administration = Quản trị kinh doanh.