GIAI ĐOẠN 2011-2020, CÓ XÉT ĐẾN NĂM 2030 LÀ QUY HOẠCH
HỦY DIỆT SỨC KHỎE VÀ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI,
ĐỔI LẤY KINH TẾ KHÔNG HIỆU QUẢ
LÀM GIA TĂNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Thực tế/sự thật (TT/ST) 1: Ngày 25/6/1998 Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 36/CT-TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Dòng đầu tiên tại Chỉ thị xác định “Bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xoá đói giảm nghèo ở mỗi nước.”
TT/ST 2: Ngày 15/11/2004 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 41-NQ/TW về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng thông qua đã khẳng định quan điểm phát triển đất nước là "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường".
Ngày 21/01/2009 Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 29-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
TT/ST 3: Năm 1993, Luật Bảo vệ môi trường đầu tiên, số 29-L/CTN được Quốc hội khoá IX thông qua ngày 27/12/1993, có 7 chương và 55 điều.
Năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường thứ hai, Số: 52/2005/QH11 được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 29/11/2005, có 15 chương và 136 điều.
Năm 2014, Luật Bảo vệ môi trường thứ ba, số 55/2014/QH13 được Quốc hội khoá XIII thông qua ngày 23/6/2014, có 20 chương và 170 điều.
TT/ST 4: Ngày 29/9/2015 tại Hà Nội, Trung tâm Phát triển và Sáng tạo Xanh (GreenID) cùng với nhóm nghiên cứu của Đại học Harvard đã tổ chức hội thảo quốc tế "Than - Nhiệt điện than: Những điều chưa biết". Trong báo cáo, ông Lauri Myllyvirta cho biết “Trong tổng số người Việt chết yểu do ô nhiễm không khí, có đến 4.300 người được xác định liên quan đến khí thải từ các dự án nhiệt điện than. Đây là con số của năm 2011, dự báo khí thải than ở Việt Nam sẽ tăng gấp ba lần vào 2030. Khi đó có khoảng 25.000 người chết mỗi năm”.
TT/ST 5: Ngày 12/12/2015 tại Paris, 195 nước trên Thế giới đã tham gia Thỏa thuận lịch sử về biến đổi khí hậu, trong đó có Việt Nam. Các nước cam kết cắt giảm phát thải khí nhà kính (chủ yếu là CO2,), đồng nghĩa với cắt giảm các nhà máy nhiệt điện than, cắt giảm thảm họa môi trường, sinh thái và sức khỏe do nhiệt điện than gây ra.
TT/ST 6: Xem nhẹ những Chỉ thị và Nghị quyết của Bộ Chính trị, Thỏa thuận Paris 2015, cảnh báo của các nhà khoa học trong và ngoài nước, Bộ Công thương vẫn trình Thủ tướng Chính phủ “Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030” và đã được phê duyệt tại Quyết định số 428/2016/QĐ-TTg, ngày 18/3/2016 (gọi tắt là Quy hoạch Điện VII điều chỉnh), với các mục tiêu chính như bảng dưới đây:
|
Các loại điện năng |
Năm 2020 |
Năm 2030 |
|
Mục tiêu cụ thể: Tổng điện năng sản xuất và nhập khẩu, trong đó: |
272 tỷ kWh |
602 tỷ kWh |
1. |
Nhiệt điện than |
49,3% |
53,2%(*) |
2. |
Nhiệt điện khí thiên nhiên và khí hóa lỏng (LNG) |
16,6 |
16,8 |
3. |
Thủy điện |
29,5 |
15,5 |
4. |
Điện sinh khối (biomass) |
1 |
2,1 |
5. |
Điện gió |
0,8 |
2,1 |
6. |
Điện mặt trời |
0,5 |
3,3 |
7. |
Điện hạt nhân (*) |
|
5,7 |
8. |
Nhập khẩu |
|
1,2 |
|
Tổng phần trăm (%): |
97,7 |
99,9 |
Để thực hiện Quy hoạch này, từ nay đến năm 2030 sẽ đầu tư khoảng 3.206.652 tỷ đồng (tương đương 148 tỷ USD).
TT/ST 7: (*) Vì tháng 11/2016 Quốc hội đã ra nghị quyết bỏ điện hạt nhân, vì hồ sơ các dự án xin đầu tư phát triển các nhà máy nhiệt điện than hàng tỷ USD của EVN, PVN và TKV (Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam) và các nhà đầu tư nước ngoài đang chất cao ở Bộ Công thương nên tỷ trọng nhiệt điện than sẽ tiếp tục tăng đến 59%
Như vậy, năm 2020 sẽ cần đốt 63 triệu tấn than và 129 triệu tấn vào năm 2030. Trên đất nước Việt Nam nhỏ bé và đông dân, với 64 nhà máy nhiệt điện than phân bổ cho 3 miền Bắc, Trung, Nam, hàng năm sẽ đốt cả trăm triệu tấn than và thi nhau nhả khói độc.
TT/ST 8: Tỷ trọng nhiệt điện than các năm trước như sau: Năm 2013 là 22,5%, năm 2015 lên 30%, năm 2016 lên 34,4%. Thủy điện năm 2013 chiếm 40% sẽ giảm xuống còn 15,5% vào năm 2030. Như vậy nhiệt điện than được ưu tiên qui hoạch trở thành trụ cột, phát triển nhảy vọt, động lực của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam.
TT/ST 9: Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế, bình quân tỷ trọng nhiệt điện than của toàn Thế giới đạt đỉnh cao nhất vào năm 2013 là 41,3%, đã giảm xuống 40,8% vào năm 2014, sau thỏa thuận Paris 2015 sẽ nhanh chóng giảm xuống 24,4% vào năm 2030 và sẽ giảm sâu hơn nữa về 11% (theo Bloomberg New Energy Outlook 2018) vào năm 2050. Động lực phát triển kinh tế của các nước phát triển, đặc biệt là Châu Âu sẽ là năng lượng sạch, năng lượng tái tạo (NLTT).
I. QUI LUẬT GIÁ CẢ PHẢI PHẢN ÁNH SỰ THẬT KINH TẾ và QUI LUẬT GIÁ CẢ PHẢI PHẢN ÁNH SỰ THẬT SINH THÁI
A) Giá cả phải phản ánh sự thật kinh tế:
TT/ST 10: Trong suốt thời gian khoảng 30 năm, dưới sự quản lý của Ban Vật giá Chính phủ, giá bán của mọi sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ của toàn bộ nền kinh tế do ngành Vật giá (từ Trung ương đến địa phương) quyết định. Từ cái kim, cuộn chỉ, cái cốc, bát ăn cơm, cho đến 1 tấn than, thép, xi măng, 1kWh điện, v.v. đều do các cán bộ ngành Vật giá ban phát. Những năm tháng bằng biện pháp hành chính gông, xiềng xích giá, lại là những năm tháng mà vấn đề giá, lương, tiền nóng bỏng nhất đất nước.
TT/ST 11: Cuối những năm 80 khi Ban Vật giá Chính phủ được giải thể, thu nhỏ, sát nhập vào Bộ Tài Chính, hầu hết giá cả các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ để cho thị trường, quan hệ cung – cầu tự quyết; nền kinh tế đất nước như được cởi trói nên đã phát triển. Giá thị trường luôn là tín hiệu và động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
TT/ST 12: Tuy nhiên Bộ Tài Chính vẫn níu kéo quyền lực quản lý giá đối với vật tư cơ bản như xăng, dầu, than, điện, nước, xi măng, sắt thép v.v.. với lý do muôn thuở: nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, khống chế lạm phát, vì thu nhập của người dân còn thấp, vì an sinh, xã hội, nếu không quản lý giá đất nước “sẽ loạn giá, kinh tế vĩ mô sẽ đảo lộn” è thực sự là một nền kinh tế xin – cho về giá.
TT/ST 13: Mặc cho duy trì quyền lực quản lý giá các vật tư cơ bản chùm sang cả thời kỳ đổi mới hiện nay, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) vẫn đạt đỉnh cao về rối loạn giá, cụ thể: hai năm 2007 – 2008 là 12,63% và 19,9%, năm 2010 – 2011 là 11,75% và 20,82%.
TT/ST 14: Giá cả đã không phản ánh sự thật kinh tế, ví dụ 1: Đến cuối tháng 10/2008 giá bán than cho 4 ngành tiêu dùng than lớn là Điện, Xi măng, Giấy, Phân bón chỉ bằng khoảng 38 % đến 79% giá thành. Giá bán cho các đơn vị tiêu dùng lẻ bằng 30% đến 60% giá thành và thấp hơn nhiều so với giá than xuất khẩu.
Ví dụ 2: Tháng 10/2012 Bộ Tài chính lại có công văn số 14440/BTC-QLG điều chỉnh GIẢM giá bán than trong nước của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), trung bình bằng 90% - 92% giá thành.
TT/ST 15: Hệ quả là giá bán điện cũng không phản ánh sự thật kinh tế, thấp và rẻ, toàn xã hội tiêu dùng thoải mái, lãng phí vô tội vạ.
Đúng là một “tài ba” trong cân đối nguồn lực, giá trị kinh tế của các sản phẩm, hàng hóa giữa các ngành nghề khác nhau. Một nghệ thuật cắt chỗ nọ, bù chỗ kia đã tạo nên một nền kinh tế chắp vá, méo mó, không hiệu quả theo ý muốn chủ quan của một vài quan chức quản lý giá.
B) Giá cả phải phản ánh sự thật sinh thái:
TT/ST 16: “Chủ nghĩa tư bản có thể sụp đổ nếu không để giá cả phản ánh sự thật sinh thái” (Oystein Dahle, cựu Phó Chủ tịch Tập đoàn dầu khí EXXON, Na-Uy). Tuyên bố này đã là kim chỉ nam, cương lĩnh hành động cho các đảng cầm quyền ở các nước TBCN, nhờ vậy nên CNTB ở các nước phát triển ngày càng thăng hoa, thịnh vượng. Nhìn từ góc độ xã hội sinh thái có thể nói các nước phát triển hiện nay không còn là CNTB kiểu cũ như cách đây 100 năm, mà đã tiến bộ, đổi mới thành CNTB sinh thái, tức là CNTB thân thiện môi trường và tiêu dùng bền vững (sustainable consumption). Ở những đất nước văn minh, giàu có và tiến bộ nhất hành tinh này họ đã đặt toàn bộ nền kinh tế trên một mặt bằng giá mới đó là MẶT BẰNG GIÁ SINH THÁI. Đó là mọi sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ phải tính đúng, tính đủ những chi phí cho việc xử lý triệt để các chất thải (rắn, lỏng, khí), tuyệt đối không làm hại môi trường. Mặt bằng giá sinh thái và lạm phát là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, độc lập với nhau.
TT/ST 17: Vậy tại sao giá cả của họ vẫn cạnh tranh tốt với những nước không chấp nhận để giá cả phản ánh sự thật sinh thái, ví dụ Việt Nam? Đơn giản là họ đã cắt giảm được chi phí hành chính, bôi trơn, tham nhũng v.v. thông minh hơn và hiệu quả hơn trong đầu tư.
TT/ST 18: Các hệ sinh thái trong tự nhiên, ngày cũng như đêm, quanh năm, ngày tháng, âm thầm hoạt động cung cấp cho chúng ta những dịch vụ của chúng (the services of ecological systems), đảm bảo cho chúng ta có một môi trường sống trong lành. Ngày xưa, ông cha ta đã sống và tiêu dùng phù hợp với khả năng chịu tải của các hệ sinh thái (carrying capacity of ecosystem) nên đã để lại cho chúng ta môi trường rất đáng để sống.
TT/ST 19: Ngày nay, chúng ta đang tranh nhau đào bới hàng tỷ, hàng tỷ tấn tài nguyên thiên nhiên, rừng vàng, biển bạc để sản xuất ra đủ loại sản phẩm, hàng hóa khác nhau phục vụ khát vọng tiêu xài của chúng ta. Sau tiêu xài chúng ta lại đổ trả lại vào thiên nhiên, các hệ sinh thái hàng tỷ, tỷ tấn rác rưởi, đổ tràn lan, cứ đâu có bờ sông, bờ mương, bờ ao hồ, chỗ đất trống là đổ. Đô thị và nông thôn trên cả nước tràn ngập rác mênh mông. Môi trường và các hệ sinh thái trên 332.000 km2 đất nước Việt Nam là người Mẹ Thiên nhiên, đang hàng ngày nuôi dưỡng chúng ta, nhưng chính chúng ta hàng ngày đang trút đổ cả trăm nghìn tấn rác rưởi, bẩn thỉu lên người Mẹ Thiên nhiên Việt Nam không một thương xót.
TT/ST 20: Tầng lớp người giàu ở Việt Nam, đại gia và các công ty của họ hiện đang sống như CNTB hoang dã, đang khai thác tối đa tài nguyên thiên nhiên, môi trường và các hệ sinh thái nhưng không có văn hóa chi trả những dịch vụ của các hệ sinh thái, không chi tiền cho những đầu tư xử lý môi trường nghiêm túc và bài bản.
TT/ST 21: Chính sách GIỮ MẶT BẰNG GIÁ THẤP VÌ: An sinh và ổn định xã hội, để kích thích tiêu dùng, khuyến khích sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài không một nước văn minh, phát triển nào áp dụng. Vì đã vi phạm nghiêm trọng 2 qui luật giá cả phải phản ánh sự thật kinh tế và giá cả phải phản ánh sự thật sinh thái, nên chúng ta đang sống và phát triển trong MỘT NỀN KINH TẾ MÉO MÓ. Giữ giá thấp để khuyến khích tiêu dùng, kích thích sản xuất khi giá cả không phản ánh sự thật sinh thái sẽ hủy diệt môi trường và các hệ sinh thái, hủy diệt cơ sở sinh tồn của chính chúng ta. HỆ QUẢ LÀ ĐẤT NƯỚC TA ĐÃ TRỞ THÀNH CƯỜNG QUỐC UNG THƯ, ung thư đang đến với mọi gia đình, cả nhà giàu, không thể ngăn cản được nữa (Xem bài “Có một thế giới vi mô đã đưa nước ta trở thành cường quốc ung thư” tại website nguyenducthang.vn); cho dù sau một đêm ngủ dậy, cả đất nước lao vào thực hiện phát triển xanh, tăng trưởng sạch, tiêu dùng bền vững. Vì quá trình phục hồi, thanh lọc, làm sạch những độc tố đã tồn đọng, tích đại trong cơ thể chúng ta cần thời gian từ 10 – 20 năm nữa. Nhanh hay chậm, tốc độ này lại phục thuộc chủ yếu vào tốc độ mà chúng ta xử lý, làm sạch ô nhiễm môi trường, trả lại nguyên trạng mà ông cha ta đã để lại, lấy năm 1975 làm mốc.
TT/ST 22: Hà Nội, Tp. HCM và nhiều nơi khác nữa đang mọc lên những tòa nhà cao chọc trời; nhiều biệt thự sang trọng không người ở có khắp nơi, rất nhiều ô tô, xe con đắt tiền lăn bánh trên mọi nẻo đường phố v.v. có đến quá nửa giá trị những TÀI SẢN đó là do chúng ta chiếm dụng của các hệ sinh thái, chúng ta ĂN vào môi trường sinh thái, ĂN vào điều kiện sống của thế hệ con cháu sau này.
TT/ST 23: Thiên nhiên và các hệ sinh thái thực sự có giá trị rất lớn: Năm 2016, Hà Nội trung bình xả thải 0,9 – 1,1 triệu m3/ngày vào môi trường. Để làm sạch lượng nước này trở về ngang với chất lượng nước của hồ Hòa Bình, tổng chi phí cần khoảng 7.000 đồng x 1,0 triệu m3 x 365 = 2.555 tỷ đồng/năm. Đây chính là giá trị phải trả cho các dịch vụ do các hệ sinh thái cung cấp.
TT/ST 24: Để sản xuất ra 1 tấn gạo cần 2.500m3 nước. Năm 2016 Việt Nam xuất khẩu 4,88 triệu tấn gạo và thu về 2,2 tỷ USD, chúng ta đã “bán” đi 4,88 triệu x 2.500m3 = 12.200 triệu m3 = 12,2 tỷ m3 nước mà không tính đến giá trị sinh thái.
TT/ST 25: Thiên nhiên và các hệ sinh thái thực sự có giá trị rất lớn: 5 con sông của Hà Nội là Kim Ngưu, Sét, Lừ, Tô Lịch và sông Nhuệ ngày xưa rất trong xanh và thơ mộng, từ năm 2008 đến nay, Bộ Xây dựng và UBND thành phố Hà Nội đã và sẽ đầu tư khoảng 24.000 tỷ đồng để xây dựng 2 nhà máy xử lý nước thải lớn nhất của cả nước, nhằm làm sống lại những con sông trên. Đáng tiếc là do quan điểm “Sản xuất trước, môi trường tính sau” và do cách tiếp cận tập trung, qui mô và hoành tráng đối ngược với cách tiếp cận phi tập trung, với qui mô vừa và nhỏ nên đã và sẽ không thể cứu được 1 con sông dù chỉ lấy có 1 ngày. Không những thế, nhà máy XLNT Yên Xá (phía Nam Hà Nội) còn có hợp phần xây dựng hệ thống 53km đường cống ngầm mới (đường kính từ 0,4 – 2,4m) để thu gom mọi thứ nước (nước thải và nước mưa khi lũ lụt) dẫn về nhà máy XLNT Yên Xá sẽ làm gia tăng ngập lụt ở Hà Nội, phủ định những kết quả của dự án thoát lũ gần 1 tỷ USD đã thực hiện trong 10 năm, do Chính phủ Nhật Bản tài trợ (chi tiết xem tại bài “Hai nhà máy xử lý nước thải lớn nhất của Hà Nội sẽ làm các con sông chết hẳn và gia tăng ngập lụt ở Thủ đô” tại nguyenducthang.vn).
TT/ST 26: Thiên nhiên và các hệ sinh thái thực sự có giá trị rất lớn: 10 năm qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã lần lượt hạ tiêu chuẩn xả thải đối với các ngành thép, sơ chế cao su thiên nhiên, công nghiệp chế biến thủy sản, giấy và bột giấy, dệt nhuộm, y tế, cửa hàng xăng dầu và nước thải của các bãi chôn lấp chất thải rắn v.v.. Do vậy, giá các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam là rất rẻ, không phản ánh sự thật sinh thái. Các doanh nghiệp và công ty thi nhau khai thác tài nguyên thiên nhiên với giá rẻ và xả thải vào môi trường (chất thải rắn, lỏng và khí) cũng với giá rẻ. Như vậy, môi trường và các hệ sinh thái coi như 2 lần bị “bóc lột”.
TT/ST 27: Thiên nhiên và các hệ sinh thái thực sự có giá trị rất lớn: Rừng nhiệt đới của Việt Nam có mức độ đa dạng sinh học rất cao; nhiều giống loài động thực vật quí hiếm trên Thế giới đã tiệt chủng, chả tiền của nào có thể mua được những đa dạng sinh học quí hiếm đó. Các loài cây cỏ, thảo dược quí hiếm tự mọc, tự phát triển, có tác dụng chữa bệnh, củng cố sức khỏe, có giá trị tiền tấn, tiền tỷ.
TT/ST 28: Thiên nhiên và các hệ sinh thái thực sự có giá trị rất lớn: Rừng ngập mặn ven biển là ĐÊ chắn biển loại I. Đê chắn biển Bắc vĩ đại nhất thế giới và tốn kém nhất thế giới của đất nước Hà Lan còn phải gọi “đê rừng ngập mặn” của Việt Nam bằng cụ. Trời phú cho chúng ta nhiều thứ, trong đó có đê rừng tự mọc, tự phát triển không đòi hòi kinh phí xây dựng, nên không có tham nhũng; loại đê rừng này còn là lá phổi xanh giúp cho hành tinh, Trái đất khỏi nóng lên, ngăn giảm băng tan và biến đổi khí hậu, còn cung cấp cho chúng ta nguồn thủy sản chất lượng loại I do các hệ sinh thái trong đê rừng đã được cân bằng nhiều năm.
TT/ST 29: Thiên nhiên và các hệ sinh thái thực sự có giá trị rất lớn: Sau cơn mưa, trung bình 1m2 đất rừng có thể lưu giữ được 0,25m3 nước thấm sâu vào đất, cắt giảm lũ, làm chậm lũ chảy về xuôi. Nếu rừng đầu nguồn không bị con người chặt phá, hay đốt để làm nương rẫy, trồng ngô, khoai sắn để sản xuất ethanol làm xăng E5 (xem bài “Chính sách xăng E5 đã hủy hoại rừng, gia tăng lũ quét bùn đất cho miền xuôi và đổi lấy kinh tế không hiệu quả”tại nguyenducthang.vn) thì sẽ không có lũ ống, lũ quét tàn phá kinh hoàng, gây thiệt hại hàng chục, hàng trăm nghìn tỷ đồng cho người dân miền xuôi.
TT/ST 30: Theo Ngân hàng Thế giới, năm 2016 ô nhiễm môi trường đã làm Việt Nam thiệt hại khoảng 10 tỷ USD, gần bằng 5% GDP. Các tổ chức quốc tế đưa ra ước tính rằng mỗi kWh nhiệt điện than làm tốn chi phí y tế đến 0,17 đô la Mỹ (Kinh tế Sài Gòn, thứ 6, ngày 17/2/2017). Theo Qui hoạch, sản lượng điện than vào các năm 2020, 2025 và 2030 lần lượt 131 tỷ kWh, 220 tỷ kWh, 304 tỷ kWh sẽ tạo ra tổng chi phí y tế lần lượt là 22,3 tỷ USD, 37,4 tỷ USD và 51,7 tỷ USD. Như vậy, một nguồn lực rất lớn của đất nước không được huy động cho phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác.
TT/ST 31: Thiên nhiên và các hệ sinh thái thực sự có giá trị rất lớn: Ngân hàng Deutsche Bank tiến hành một nghiên cứu theo yêu cầu của Chính phủ Đức khi nước này nắm giữ chức chủ tịch luân phiên của Liên minh Châu Âu. Dự án có tên “Giá trị kinh tế của các hệ sinh thái và đa dạng sinh học”. Tháng 5/2008, Pavan Sukhdev, trưởng nhóm chuyên gia nghiên cứu, kết luận rằng sự suy giảm diện tích rừng có thể khiến GDP toàn cầu giảm khoảng 7%. “Tổn thất này không chỉ lớn mà còn xảy ra liên tục vì rừng bị phá và cháy từ năm này sang năm khác. Trong cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay, thị trường chứng khoán phố Wall chỉ mất khoảng 1.000 đến 1.500 tỷ USD, còn thiệt hại do sự thu hẹp diện tích rừng lên tới 2.000 - 5.000 tỷ USD mỗi năm".
Sự mất mát của thị trường chứng khoán chỉ là mất cái danh, uy tín, thương hiệu do yếu kém trong quản lý công ty, do kinh doanh không trung thực, lừa đảo, chộp giật, gây hại cho khách hàng. Đối với những nhà đầu tư cơ hội, lướt sóng, lướt ván, hớt ngọn trên TTCK thì đồng tiền chẳng mất đi đâu cả, nó chỉ chuyển từ túi người nọ sang túi người kia mà thôi. Mất rừng, sông chết, hồ chết, đất đai bạc mầu, ô nhiễm, bệnh tật ốm đau chết tróc, bão lụt tàn phá hàng vạn ngôi nhà, công trình là những cái mất vĩnh viễn, mất cái thực do mồ hôi nước mắt tạo nên, những cái mất vĩnh hằng. Ngay đến cả những mất mát do suy thoái kinh tế cũng chả làm mất của xã hội cái gì, chỉ làm mất đi “cơ hội ăn mặn” gặm vào điều kiện sống của tương lai mà thôi.
CHÚNG TA ĐÃ CÓ 30 NĂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ KHÔNG HIỆU QUẢ, CÓ MỘT NỀN KINH TẾ MÉO MÓ, VÌ KHÔNG ĐỂ GIÁ CẢ PHẢN ÁNH SỰ THẬT KINH TẾ VÀ SỰ THẬT SINH THÁI. Do vậy, đương nhiên so với các nước trong khu vực chúng ta luôn tụt hậu. CNTB ở Việt Nam hiện nay và cả trong tương lai chỉ là CNTB hoang dã, không thể trở thành CNTB sinh thái như ở các nước Châu Âu.
II. NHIỆT ĐIỆN THAN HỦY DIỆT SỨC KHỎE, MÔI TRƯỜNG VÀ HỆ SINH THÁI
TT/ST 32: Than được khai thác từ vỏ Trái đất, ngoài các nguyên tố chủ chốt như cacbon, oxy, hydro, ni tơ, lưu huỳnh, phốt pho còn chứa các kim loại sau: Arsen, thủy ngân, beryllium, cadmium, nhôm, sắt, chì, thiếc, crom, selenium, canxi, coban, đồng, magie, mangan, natri, kali, vanadium v.v.. Bình quân 1 triệu tấn than (khô, độ ẩm gần như bằng 0) có chứa 104kg thủy ngân, 7.509 kg Arsen, 1.111 kg Beryllium, 714kg Cadmium, 8.390kg Crom, 8.894kg Nickel, 2.464kg Selenium v.v.. (khoảng 29,2 tấn kim loại nặng). Than này được nghiền mịn và phun vào buồng đốt nồi hơi.
TT/ST 33: Theo định luật bảo toàn khối (một định luật cơ bản của tự nhiên), tổng khối lượng của mọi chất tham gia vào quá trình đốt cháy than sẽ bằng tổng khối lượng của tất cả các chất/sản phẩm hình thành sau đó. Bình quân khi đốt 1 triệu tấn than sẽ cần khoảng 1,6 triệu tấn O2. Sản phẩm hình thành gồm khoảng 2,0 triệu tấn khí hiệu ứng nhà kính (CO2, và CH4), khoảng 0,5 triệu tấn tro than có chứa tất cả các kim loại độc hại nói trên (67% là tro đáy và 33% là tro bay) và 0,1 triệu tấn khí SOx, NOx.
TT/ST 34: Tác hại nhiệt của nước làm mát từ dàn ngưng đối với các hệ sinh thái:
Vào năm 2030 các nhà máy nhiệt điện sẽ sử dụng 46 tỷ m3 nước để làm mát cho hệ thống ngưng; nước này sau đó đạt gần 40oC và xả thẳng vào môi trường thủy sinh sẽ “hâm nóng” mọi động - thực vật.
TT/ST 35: Tác hại của các hạt bụi PM10 và PM2,5:
Các hạt bụi có kích thước nhỏ hơn 10 µm có thể đi vào tận phế nang, gây viêm mũi, viêm phế quản, hen suyễn, viêm phổi. Hạt nhỏ hơn 2,5 µm, bao gồm cả các kim loại nặng bay hơi, có thể đi vào tận màng phổi và đọng lại trong lá phổi gây viêm phổi, sơ hóa phổi, nếu nồng độ cao và kéo dài có thể dẫn đến ung thư phổi.
TT/ST 36: Tác hại của các độc tố hóa học dạng khí thải:
Khí SO2, SO3 gọi chung là SOx: Tác động lên sức khỏe: Là những khí độc hại, có tính kích thích, ở nồng độ nhất định có thể gây co giật cơ trơn của khí quản. Ở nồng độ lớn hơn sẽ gây tăng tiết dịch niêm mạc đường khí quản gây viêm khí quản, khi tiếp xúc với mắt có thể tạo thành axit gây tổn hại đến thị lực. SOx có thể xâm nhập vào cơ thể người qua da và các cơ quan hô hấp hoặc cơ quan tiêu hóa.
TT/ST 37: Tác động lên môi trường và hệ sinh thái: SOx bị oxy hóa ngoài không khí và phản ứng với nước mưa tạo thành axit H2SO4 hay các muối sulfate gây hiện tượng mưa axit, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thực vật, ảnh hưởng đến hệ sinh thái, làm chua đất và là tác nhân ăn mòn kim loại, bê tông và các công trình kiến trúc.
TT/ST 38: Khí NO2 khi bị hít vào kích thích mạnh đường hô hấp. Nó tác động đến hệ thần kinh và phá hủy mô tế bào phổi, làm chảy nước mũi, viêm họng. Với nồng độ 5ppm có thể gây ảnh hưởng xấu đến đường hô hấp. Con người tiếp xúc lâu với NO2 khoảng 0.06 ppm có thể gây các bệnh trầm trọng về phổi.
TT/ST 39: Khí CO là loại khí không màu, không mùi không vị, tạo ra từ quá trình cháy không hoàn toàn của nguyên liệu than. Những người mang thai và đau tim tiếp xúc với CO sẽ rất nguy hiểm vì ái lực của CO với hemoglobin cao hơn gấp 200 lần so với oxy, nên khi vào cơ thể sẽ lập tức phản ứng với hemoglobin, cản trở oxy từ máu đến các mô.
TT/ST 40: Tác hại của phát thải khí hiệu ứng nhà kính (CO2):
Nhiều vạn năm về trước nồng độ CO2 trong không khí luôn ổn định ở mức 280ppm (phần triệu, bằng 0,028%). Bỗng dưng chỉ trong 150 năm vừa qua liên tục tăng, đến 410ppm (0,041%) vào tháng 7/2017, do con người đã đốt quá nhiều nhiên liệu hóa thạch. Bình quân cứ đốt 1 triệu tấn than sẽ tạo ra 1,9 – 2,1 triệu tấn khí CO2, tích tụ trên khí quyển tạo thành lớp ngăn chặn không cho các bức xạ nhiệt từ bề mặt Trái đất thoát vào vũ trụ, làm cho Trái đất nóng dần lên, băng tan chảy, mực nước biển dâng cao và gây biến đổi khí hậu.
TT/ST 41: Theo cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), trong năm 2015, từ tất cả các hoạt động của con người, tổng phát thải CO2 toàn cầu là 32,3 tỷ tấn. Trong đó riêng các nhà máy nhiệt điện than phát thải 9,88 tỷ tấn CO2, chiếm 31% của tổng phát thải toàn cầu. Chính phủ Việt Nam đã cam kết thực hiện cắt giảm phát thải CO2.
TT/ST 42: Từ những số liệu thống kê (các năm 2012 – 2014) của Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu (công văn số 605/KTTV-BĐKH-GSPT ngày 19/5/2016) có thể tính toán tỷ số phát thải CO2 bình quân đối với điện than là 2,03 triệu tấn CO2/triệu tấn than thiêu đốt. Theo Qui hoạch, các nhà máy nhiệt điện than của Việt Nam vào năm 2020 sẽ tiêu thụ 63 triệu tấn than, phát thải 128 triệu tấn CO2, năm 2025 tiêu thụ 95 triệu tấn than, phát thải 193 triệu tấn CO2, năm 2030 tiêu thụ 129 triệu tấn than, phát thải 262 triệu tấn CO2 góp phần lớn nhất (trong cả nước) gia tăng biến đổi khí hậu.
TT/ST 43: Tác hại của các độc tố hóa học “ngậm” trong bùn than, bụi, tro, xỉ:
Nước mưa, nước tưới chống bụi sẽ thẩm thấu vào TẤT TẬT mọi thứ có nguồn gốc từ than, sẽ hòa tan rất nhiều các độc tố hóa học khác nhau vào nước và lan tỏa khắp nơi theo đường chảy, thấm, rò rỉ của nước.
TẤT TẬT các độc tố hóa học nói trên trong môi trường không khí và nước sẽ đi vào cơ thể con người thông qua đường da, ăn uống, hít thở. Bằng con đường ăn uống chủ yếu qua mạng lưới và chuỗi thức ăn (food chain and food web), các độc tố này được tích tụ và khuyếch đại sinh học lên hàng triệu và chục triệu lần (biological accumulation and magnification). Đây là một qui luật của tự nhiên (chi tiết xem bài “Cần trả lại chân lý khoa học cho kết luận về nguyên nhân cá chết” tại nguyenducthang.vn) .
TT/ST 44: Một nhóm nghiên cứu của Đại học Harvard về “Các tác động liên quan tới sức khỏe do gia tăng phát thải từ than ở khu vực Đông Nam Á và Việt Nam” đã tổ chức hội thảo "Than - Nhiệt điện than: Những điều chưa biết" vào ngày 29/9/2015 tại Hà Nội. Ông Lauri Myllyvirta cho biết “Trong tổng số người Việt chết yểu do ô nhiễm không khí, có đến 4.300 người được xác định liên quan đến khí thải từ các dự án nhiệt điện than. Đây là con số của năm 2011, dự báo khí thải than ở Việt Nam sẽ tăng gấp ba lần vào 2030. Khi đó có khoảng 25.000 người chết mỗi năm (Báo Tuổi trẻ ngày 30/9/2015 với tiêu đề Nhiệt điện than: Kẻ “giết người hàng loạt”). 10 năm là giai đoạn ngắn của cuộc đời, sẽ có 250.000 người chết trẻ, chưa tính đến những người sẽ chết do tác động mạn tính lâu dài, như bệnh ung thư.
TT/ST 45: Các tổ chức quốc tế đưa ra ước tính rằng mỗi kWh nhiệt điện than làm tốn chi phí y tế đến 0,17 đô la Mỹ (Kinh tế Sài Gòn, thứ 6, ngày 17/2/2017). Theo Qui hoạch, sản lượng điện than vào các năm 2020, 2025 và 2030 lần lượt 131 tỷ kWh, 220 tỷ kWh, 304 tỷ kWh sẽ tạo ra tổng chi phí y tế lần lượt là 22,3 tỷ USD, 37,4 tỷ USD và 51,7 tỷ USD. Như vậy, một nguồn lực rất lớn của đất nước không được huy động cho phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác.
III. XU HƯỚNG ĐẢM BẢO AN NINH NĂNG LƯỢNG CỦA THẾ GIỚI
TT/ST 46: Các nước công nghiệp phát triển như Đức, Anh, Pháp, Thụy Điển… có đầy đủ những công nghệ siêu hiện đại về nhiệt điện than, siêu hiện đại về cả công nghệ xử lý khí thải, tro, bụi, xỉ. Họ là nước chế tạo và sản xuất ra công nghệ nguồn, có nhiều bằng phát minh, sáng chế, chứ không phải mua, nhập khẩu công nghệ như Việt Nam, đến nay, thấy công nghệ sản xuất điện siêu sạch từ các nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) đã rẻ đến mức có thể cạnh tranh được với nhiệt điện than nên họ đã nhất loạt, tuyên bố cắt giảm nhiệt điện than.
TT/ST 47: Thỏa thuận Paris 2015 là mốc lịch sử, để cắt giảm nhiệt điện than, thúc đẩy phát triển nhảy vọt của điện NLTT, sẽ chiếm 2/3 tổng công suất các nhà máy điện trên toàn Thế giới được xây dựng trong giai đoạn 2016-2020.
TT/ST 48: Những tiến bộ mới nhất về KH&CN điện NLTT là vô cùng ấn tượng: Scotland là nước thuộc UK xứ lạnh, có nhu cầu tiêu dùng năng lượng rất cao, phấn đấu vào năm 2030, NLTT sẽ đáp ứng 50% mọi nhu cầu về năng lượng của cả đất nước, kể cả sưởi ấm và giao thông vận tải.
Theo một nghiên cứu mới của Bloomberg New Energy Finance (BNEF) “Năm 2016 điện rẻ nhất ở UK và Đức là điện từ năng lượng gió”.
TT/ST 49: Tập đoàn Google năm 2016 đã từ chối sử dụng năng lượng bẩn, các trung tâm dữ liệu và các tòa văn phòng làm việc dành cho khoảng 60.000 nhân viên đã sử dụng 44% năng lượng mặt trời và sức gió, hết năm 2017 sẽ sử dụng 100% nguồn NLTT.
TT/ST 50: Năm 2013 điện NLTT của Thụy Điển đã đáp ứng 51,1% tổng nhu cầu tiêu thụ điện của cả nước. Năm 2015, Thủ tướng Thụy Điển đã trịnh trọng tuyên bố sẽ là “một trong những nước đầu tiên trên Thế giới hoàn toàn không sử dụng nhiên liệu hóa thạch”. Các chuyên gia điện của Thụy Điển còn nói là họ sẽ “chôn vùi” nhiên liệu hóa thạch. Một đất nước ở Bắc Bán cầu, chìm ngập trong băng, tuyết, đã đảm bảo an ninh năng lượng cho mình chủ yếu bằng nguồn NLTT, thật đáng kính nể.
TT/ST 51: Đất nước Bồ Đào Nha tự hào công bố thông tin: “Từ 6g45 sáng Thứ 7, ngày 7/5/2016 đến 5g45 phút chiều thứ Tư ngày 11/5/2016 đã đạt kỷ lục, bước ngoặt quan trọng, liên tục 4 ngày liền, điện NLTT đã đáp ứng toàn bộ nhu cầu điện năng của cả đất nước, hoàn toàn không sử dụng nhiên liệu hóa thạch”. Hệ thống điện ngày nay của Bồ Đào Nha đã đạt mức 100% điện NLTT thậm chí cả cho xuất khẩu.
TT/ST 52: Ngày 20/7/2017 cơ quan Điện và Nước của thành phố Dubai thông báo là dự án Điện mặt trời Al Maktoum giai đoạn 3 sẽ hoàn tất vào năm 2020, với chi phí qui chuẩn LCOE sẽ là 2,99 cents Mỹ/kWh (khoảng 690 đồng VNĐ), SIÊU SẠCH VÀ SIÊU RỂ CỦA DUBAI. Tỷ trọng điện mặt trời 25% vào năm 2030 và 75% vào năm 2050.
TT/ST 53: Theo thông báo của Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (the U.S. Energy Information Administration (EIA)): Từ năm 2012 – 2016 sẽ cắt giảm 27.000MW công suất (cắt giảm 8,5%) của 175 nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động.
TT/ST 54: Từ tháng 3/2016, Trung Quốc đã dừng phê duyệt nhà máy nhiệt điện mới tại 13 tỉnh và dừng khởi công tại 15 tỉnh. Bên cạnh đó, nước này ban hành hàng loạt chính sách đóng cửa nhà máy cũ, hủy các dự án mới, hủy quy hoạch nhiệt điện. Tổng cộng trong thời gian qua, Trung Quốc đã dừng 300.000 MW ở tất cả các giai đoạn, giảm 85% cấp phép cho các nhà máy mới. Giữa tháng 3/2017, chính quyền thành phố Bắc Kinh đã đóng cửa tổ máy cuối cùng của Nhà máy điện Hoa Năng và trở thành nơi đầu tiên tại Trung Quốc chấm dứt sử dụng năng lượng điện từ than đá.
TT/ST 55: Bộ trưởng Tài chính Ôxtrâylia Wayne Swan cho biết “phát triển nền Kinh tế xanh chính là chìa khóa để giải quyết các thách thức toàn cầu”.
Các nước châu Âu đã đảm bảo an ninh năng lượng, không phải bằng tăng CUNG, mà bằng đánh thuế môi trường để GIẢM cầu tiêu thụ nhiên liệu trung bình xuống 2,6% và giảm lượng khí thải từ 2 - 6%/năm trong khi đã là làm gia tăng 0,5% GDP.
BỨC TRANH TOÀN CẢNH NGÀNH ĐIỆN THẾ GIỚI:
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), bình quân tỷ trọng nhiệt điện than của toàn Thế giới đạt đỉnh cao nhất vào năm 2013 là 41,3%, đã giảm xuống 38% vào năm 2017. Sau thỏa thuận Paris 2015 sẽ nhanh chóng giảm xuống 24,4% vào năm 2030, và giảm tiếp xuống 11% vào năm 2050. Động lực phát triển kinh tế của toàn Thế giới là năng lượng sạch, năng lượng tái tạo (NLTT), sẽ tạo công ăn việc làm cho triệu triệu người trên Thế giới.
TT/ST 56: Theo tài liệu Global Shift: Countries and Subnational Entities Phasing Out Existing Coal Power Plants and Shrinking the Proposed Coal Power Pipeline. October 2017 Greenpeace.org:
1) Các quốc gia hầu như không có điện than: Albania, Belarus, El Salvador, Ghana, Latvia.
2) Các quốc gia đã chấm dứt hoặc cam kết chấm dứt hoàn toàn điện than: Belgium (2016), Scotland (2016), Austria (2025), Canada (2030), Finland (2030), France (2023), Netherlands (2030), New Zealand (2022), Portugal (2030), Sweden (2030), United Kingdom (2025).
3) Các bang của Mỹ đã chấm dứt hoặc cam kết chấm dứt hoàn toàn nhiệt điện than: California (2014), Ontario (2014), Massachusetts (2017), New York state (2020), Oregon (2020), Connecticut (2021), Hawaii (2022), Washington state (2025), New Mexico (2030).
4) Các thành phố đã hoặc cam kết chấm dứt hoàn toàn nhiệt điện than: Bắc Kinh (2017), Delhi city (2018), Berlin (2030).
TT/ST 57: Những lý do chủ yếu để điện gió và điện mặt trời trở thành trụ cột, xương sống điện lực Thế giới:
TT/ST 58: Tất cả những yếu tố trên đã làm cho chi phí bình quân qui dẫn, LCOE (được hiểu là giá hòa vốn cho cả đời nhà máy) ở qui mô bình quân toàn cầu, nửa đầu năm 2018, điện gió trên bờ là 5,5 cent US/kWh, giảm 18% so với 6 tháng đầu năm ngoái. Điện mặt trời 7,0 cent US/kWh, cũng giảm 18% tương tự điện gió. Điện gió ngoài khơi là 11,8 cent US/kWh, giảm 5%.
TT/ST 59: Ấn Độ: Nửa đầu năm 2018, LCOE đối với điện gió trên bờ là 3,9 cent US/kWh, giảm 46% so với năm ngoái. Điện mặt trời là 4,1 cents US/kWh, giảm 45%. So với điện than hiện đang là 6,8 cents US/kWh, điện khí ga chu trình kết hợp là 9,3 cents US/kWh. (Theo Bloomberg New Energy Outlook 2018)
TT/ST 60: Ngày 20/7/2017 cơ quan Điện và Nước của thành phố Dubai thông báo là dự án Điện mặt trời Al Maktoum giai đoạn 3 sẽ hoàn tất vào năm 2020, LCOE sẽ là 2,99 cents Mỹ/kWh (khoảng 690 đồng VNĐ), siêu sạch và siêu rẻ của Dubai. Tỷ trọng điện mặt trời 25% vào năm 2030 và 75% vào năm 2050.
Tất cả đều rẻ hơn nhiệt điện than siêu bẩn của Việt Nam, với ưu đãi thuế BVMT gần bằng 0, thuế phát thải CO2 không có.
TT/ST 61: Đến năm 2050 (Theo Bloomberg New Energy Outlook 2018): Ở qui mô trung bình toàn Thế giới, tổng điện gió và điện mặt trời sẽ chiếm 48%, thủy điện 16%, đưa điện NLTT lên 64%, nhiệt điện than chỉ có 11%. Toàn Châu Âu, điện NLTT chiếm đến 87%. Nước Đức tổng điện mặt trời và điện gió chiếm 74%, tổng điện NLTT chiếm 84%. Nước Anh điện NLTT lên 83%. Nước Mỹ, điện than và điện hạt nhân sẽ biến mất, mặc dù trữ lượng “vàng đen”, sản xuất và xuất khẩu “vàng đen” ở nước Mỹ là lớn nhất Thế giới. Điện NLTT sẽ chiếm 55%, 45% còn lại là điện khí ga. Úc: điện gió và điện mặt trời đóng vai trò trụ cột, chủ lực; nhiệt điện than sẽ biến mất khỏi Úc, mặc dù Úc là vương quốc của nhiều mỏ than và xuất khẩu than (chỉ sau Mỹ, Nga và Trung Quốc). Trung Quốc: tổng điện gió và mặt trời sẽ chiếm 46% đưa tổng điện NLTT lên 62%. Tổng công suất điện mặt trời của Trung Quốc đạt 1,1 triệu MW bằng 21% tổng công suất điện mặt trời toàn cầu; điện gió đạt 1,0 triệu MW bằng 33% tổng điện gió toàn cầu. Ấn Độ sẽ có điện mặt trời và điện gió rẻ nhất Thế giới và tổng điện NLTT sẽ là 75%. Nhật Bản: điện mặt trời là 43%, điện NLTT sẽ chiếm 75%. Hàn Quốc, điện khí ga và NLTT sẽ chiếm 71% còn lại là điện hạt nhân và điện than.
TT/ST 62: Đến năm 2050, tổng đầu tư toàn cầu vào pin/ắc qui lưu trữ điện sẽ là 548 tỷ USD. Trong đó 223 tỷ USD đến từ Châu Á và Thái Bình Dương; 168 tỷ USD đến từ Châu Âu.
Năm 2017 toàn cầu đã tạo ra 131 triệu kWh điện pin/ắc qui, trong đó Trung Quốc chiếm 59%, dự đoán trong năm 2021 toàn cầu sẽ sản xuất 400 triệu kWh, trong đó 221 triệu kWh là của Trung Quốc, đưa tỷ lệ điện pin/ắc qui do Trung Quốc sản xuất lên 73% toàn cầu.
TT/ST 63: Vì điện gió và điện mặt trời và pin/ắc qui, máy biến tần, đồng hồ đo điện thông minh trở nên vô cùng rẻ, nên hệ thống điện tại tất cả các nước trên Thế giới sẽ là rất phân tán, phi tập trung cao độ, điện sản xuất ở khắp nơi, điện không phải di chuyển nhiều từ Đông sang Tây, hay từ Bắc xuống Nam hàng ngàn km, gây tổn thất lãng phí trên đường dây. Sẽ có rất rất nhiều các trang trại điện gió và trang trại điện mặt trời rải rác khắp nơi đấu nối vào với lưới điện chung, ở mọi quốc gia. Nhiều triệu hộ gia đình ở nhiều nước trên Thế giới sẽ thi nhau tự sản xuất điện mặt trời, tích trữ vào pin/ắc qui để dùng vào những lúc không nắng, không gió, hay thừa thì bán vào lưới điện. 100% vùng xâu, vùng xa, hải đảo sẽ có điện. Thậm chí gia đình nghèo, không lắp đặt các tấm panel PV điện mặt trời, họ vẫn có thể mua các pin/ắc qui để tích trữ điện lưới vào lúc giá rẻ (thời điểm các nguồn cung nhiều, dư thừa điện) và đem ra sử dụng vào giờ cao điểm (lúc giá điện lưới cao), cũng tiết kiệm được tiền đáng kể. Giá bán điện ở các nước được qui định cho từng giờ trong ngày, công khai, minh bạch để người tiêu dùng biết lựa chọn tối ưu kinh tế cho mình, điều khiển điện trong gia đình thông qua điện thoại thông minh.
TT/ST 64: Hệ thống lưới điện quốc gia thông minh (national smart grid) sẽ là tập hợp của rất nhiều các lưới điện nhỏ thông minh (small smart grids). Tính linh hoạt của hệ thống điện này (flexibility) sẽ là cao nhất, hệ thống điện sẽ vận hành tốt nhất, hiệu quả nhất.
Vai trò điều tiết điện truyền thống của nhiệt điện than sẽ biến mất. Thay vào đó là điện khí ga cùng với triệu triệu các pin/ắc qui và người tiêu dùng sẽ đảm đương. Vào giờ cao điểm, khan hiếm điện giá cao, người tiêu dùng sẽ chuyển sang sử dụng điện lưu trữ trong pin/ắc qui. Khi điện cung trên lưới dư thừa, điện gió và điện mặt trời hoạt động mạnh, giá điện sẽ rẻ, người tiêu dùng sẽ nạp điện vào pin/ắc qui để tích trữ.
Quan điểm phải đấu nối với lưới điện quốc gia sẽ trở lên lỗi thời. Nhiều trăm triệu hộ gia đình trên Thế giới sẽ tự sản xuất điện NLTT, hình thành lên những lưới điện thông minh qui mô mini, siêu mini (mini/micro smart grids) cho một xóm, tổ, thôn, bản, làng... Nhiều triệu người sẽ đứng ra liên doanh, liên kết kinh doanh vận hành những lưới điện mini này. Giám sát, theo dõi tiêu dùng điện, thanh toán tiền điện, tất cả sẽ qua điện thoại di động thông minh (vừa đi vừa thanh toán – Pay As You Go – PAYG).
TT/ST 65: Chính vì điện gió và điện mặt trời và các pin/ắc qui quá rẻ như vậy, nên ô tô và xe điện sẽ bùng nổ trong tương lai. Ở qui mô toàn cầu, năm 2017, ô tô xe điện (bao gồm xe tải nhẹ và xe buýt) bán ra khoảng 1,1 triệu chiếc, chiếm 1,8% của tổng các phương tiện vận tải. Vào năm 2030 sẽ tăng lên gấp 27 lần, đạt 30 triệu xe, ô tô điện. Tỷ lệ này sẽ tăng lên 55% vào năm 2040. Hãng thông tấn Reuters đã trích dẫn báo Nhật Chunichi Shimbun vào năm 2022 Toyota sẽ xuất xưởng hàng loạt xe điện chạy đường dài từ 800km – 1000km cho một lần nạp điện chỉ có vài phút. Pin/ắc qui là Lithium – ion nhưng ở thể rắn (solid state), an toàn hơn thể lỏng (liquid state) truyền thống. Loại pin/ắc qui thể rắn này Toyota sẽ bán ra vào năm 2020. Tương tự là hãng General Motors nhưng chậm hơn 2 năm. Ô tô và xe điện không phát thải bất cứ loại khí nào, không tiếng ồn. Phát sinh nhu cầu điện năng mới là 2.000 tỷ kWh vào năm 2040, sẽ là 3.414 tỷ kWh vào năm 2050. Các ô tô, xe điện khi đó sẽ tiêu thụ 9% tổng nhu cầu điện năng toàn cầu. Đối với một số nước, ví dụ Đức, xe ô tô điện sẽ tiêu thụ 24% tổng nhu cầu điện năng vào năm 2050. Các chủ xe sẽ chọn nạp điện vào giờ mà giá điện rẻ nhất. Như vậy sẽ ngày càng có nhiều xe điện nạp điện khi điện gió và điện mặt trời hoạt động (Theo Bloomberg New Energy Outlook 2018).
TT/ST 66: Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế (The International Renewable Energy Agency - IRENA) là tổ chức liên Chính phủ, ra đời ngày 26/01/2009 tại hội nghị thành lập ở Bonn (Cộng hòa Liên bang Đức), có sứ mệnh hỗ trợ các nước trong việc chuyển đổi theo hướng tương lai năng lượng bền vững. Tổng hành dinh đặt tại Abu Dhabi (United Arab Emirates, các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất). Một số thành viên sáng lập bao gồm: Đức, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Pháp, Ý, Ba Lan, Ghana, Nigeria, Uganda, Hàn Quốc, Philippines, Guatemala, Chile và Argentina. Đến nay đã có tất cả 180 nước thành viên, trong đó chính thức là 154 và 26 là dự khuyết. Các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore đều là thành viên chính thức, dự khuyết có Cambodia. Cơ quan quyền lực cao nhất của IRENA là Đại hội đồng gồm 180 đại biểu của 180 nước thành viên. Ngày 13 – 14 tháng 01 năm 2018 sẽ diễn ra phiên họp thứ 8 của Đại hội đồng tại Abu Dhabi (UAE). Do đam mê nhiệt điện than, đơn độc và đối lập hoàn toàn với xu thế phát triển năng lượng của Thế giới nên Việt Nam đã “lựa chọn” đơn độc đứng ngoài tổ chức này.
IV. ĐI NGƯỢC XU THẾ PHÁT TRIỂN ĐIỆN NĂNG CỦA THẾ GIỚI LÀ TỰ MÌNH HẠI MÌNH
TT/ST 67: Thỏa thuận Paris 2015 là bước ngoặt lịch sử của Thế giới trong việc cắt giảm phát thải khí hiệu ứng nhà kính, cắt giảm nhiệt điện than. Toàn Thế giới đã xiết tay nhau đi theo hướng năng lượng thân thiện môi trường, năng lượng sạch. Việt Nam đơn độc một mình, sau Quyết định số 428/2016/QĐ-TTg ngày 18/3/2016, đằng sau quay! Chạy nhanh về phía nhiệt điện than để hủy hoại môi trường, các hệ sinh thái và sức khỏe người dân (sức hủy diệt càng tăng khi mật độ dân số càng cao). Trung Quốc, 144 người cạnh tranh trên 1km2 để sống, còn ở Việt Nam 288 người cạnh tranh trên 1km2.
TT/ST 68: Xu hướng NGHỊCH suốt 17 năm và còn lâu hơn nữa của nhiệt điện than Việt Nam so với toàn Thế giới:
|
Năm 2013 |
Năm 2030 |
Bình quân năm |
Tổng sản lượng NĐT toàn Thế giới (tỷ kWh) |
9.632 |
7.471 |
GIẢM (-1,5%) |
Tỷ trọng: |
41,3% |
24,4% |
GIẢM (-0,99%) |
Tổng sản lượng NĐT của Việt Nam (tỷ kWh) |
27,72 |
304,3 |
TĂNG 15,1% |
Tỷ trọng: |
22,5% |
59% |
TĂNG 2,15% |
A) Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ than lớn của Thế giới:
TT/ST 69: Thỏa thuận Paris 2015 đã làm cho giá than bán trên thị trường thế giới rơi tự do, rẻ hơn cả than của Việt Nam. Sự đam mê nhiệt điện than của Bộ Công Thương đã biến Việt Nam thành bãi đổ “than không được hoan nghênh” từ các nơi khác đến. Năm 2015 cả nước nhập khẩu chưa đầy 0,5 triệu tấn, nhưng mới chỉ có 9 tháng đầu năm 2016 nhiệt điện than đã nhập về khoảng 10 triệu tấn, gấp 20 lần!!!.
TT/ST 70: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) chớp cơ hội, đã “khéo” từ chối bạn hàng truyền thống nhiều năm của mình là Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV). Họ nói vì giá than của TKV quá đắt sẽ làm tăng giá điện của EVN. Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư 100% nước ngoài đồng loạt đòi đứng ra tự nhập than trực tiếp từ nước ngoài về sử dụng cho nhiệt điện than của mình, trong đó có Công ty Hữu hạn Vedan Việt Nam, Formosa Hà Tĩnh v.v..
TT/ST 71: Năm 2016, than của các nước chảy ào ạt vào Việt Nam đã làm TKV ứ đọng khoảng 10 triệu tấn. Ngày 6/1/2017 TKV đã công bố năm 2016 là một năm khó khăn lịch sử.
B) Thiên nhiên thực sự ưu đãi cho Việt Nam rất nhiều thứ:
Rừng vàng, biển bạc, nhiều tài nguyên, khoáng sản, nhiều bãi biển trong vắt, cảnh quan, hang động kỳ thú v.v.. năng lượng mặt trời, sức gió rất nhiều:
TT/ST 72: Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam có tiềm năng về phát triển điện gió lớn nhất trong khu vực, vượt qua Lào, Campuchia và Thái Lan. Trữ lượng gió của Việt Nam ước tính đạt 513.360 MW, gấp hơn 6 lần tổng công suất ước tính của toàn ngành Điện vào năm 2020.
TT/ST 73: Theo nghiên cứu, khảo sát của Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ) thuộc Bộ Hợp tác kinh tế và phát triển Liên bang Đức (BMZ), tiềm năng phát triển năng lượng gió ở Việt Nam khoảng 214.000 MW, công suất lắp đặt khoảng 50.000MW, tương đương với 50 nhà máy thủy điện Hòa Bình.
Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng cao về năng lượng mặt trời, đặc biệt là miền Trung và miền Nam, cường độ năng lượng mặt trời trung bình là 5kWh/m2, ở miền Bắc khoảng 4kWh/m2. Năng lượng mặt trời trung bình 150kcal/m2 trong khoảng 2000 giờ - 5000 giờ một năm.
TT/ST 74: Điện sản xuất từ nguồn NLTT là rất sạch, không làm hại đến sức khỏe của con người và không mất tiền mua nhiên liệu hàng ngày (nước cho thủy điện, ánh nắng, sức gió).
C) Các ngành điện mặt trời, điện sức gió, sinh khối không thể ngóc đầu lên được ở đất nước Việt Nam, vì sao?
Vì Bộ Công Thương thiên vị ngành nhiệt điện than (các tập đoàn kinh tế Nhà nước EVN, PVN và TKV và các nhà đầu tư nước ngoài đang đam mê đầu tư nhiệt điện than), đã “trói” điện mặt trời, sức gió, sinh khối (chủ yếu các nhà đầu tư tư nhân nhỏ bé) bằng 2 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ:
TT/ST 75: Quyết định số 428/2016/QĐ-TTg ngày 18/3/2016 qui định đến năm 2030 điện sinh khối chỉ chiếm có 2,1%, điện gió 2,1% và điện mặt trời là 3,3%. Đây là quyết định “cầm tù” các loại điện NLTT.
TT/ST 76: Quyết định số: 37/2011/QĐ-TTg ngày 29/6/ 2011: Qui định mức giá mua điện gió là 1.614 đồng/kWh (tương đương 7,8 UScent/kWh). Đây là các mức giá mua điện gió và mặt trời rẻ nhất trên Thế giới. Mức giá “bóp chết” loại hình năng lượng siêu sạch. Trong khi đó giá mua điện gió của Philippine từ 12 – 20 UScent/kWh. Thái Lan và Indonesia là 18 UScent/kWh.
TT/ST 78: Hiệp hội Điện gió Bình Thuận và các tổ chức tư vấn quốc tế đã mất rất nhiều thời gian chứng minh, thuyết phục Bộ Công Thương cần điều chỉnh giá mua lên trên 10 cent/kWh vào năm 2015 và trên 12 cent/kWh vào năm 2017 nhưng đã thất bại.
TT/ST 79: Vì danh sách các dự án nhiệt điện than nhiều tỷ USD đã chất đầy ở Bộ Công Thương, mỗi năm có chết 25.000 người cũng chẳng sao, môi trường và các hệ sinh thái bị hủy diệt cũng vô tư.
TT/ST 80: Vì Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có nói “Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”, “không vì lợi ích nhóm” là để Thủ tướng nghe; còn Bộ Công Thương trình gì, các Bộ, ngành liên quan vẫn nhất trí, ủng hộ.
V. VÌ SAO GIÁ ĐIỆN Ở VIỆT NAM ĐANG KÌM HÃM SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CẢ ĐẤT NƯỚC.
TT/ST 81: Vì thị trường điện ở Việt Nam là thị trường độc quyền 1 người mua, độc quyền 1 người quyết giá, và độc quyền 1 người bán, đó là Bộ Công thương, là EVN. EVN sản xuất điện sau đó bán lại cho EVN mua. PVN và TKV là hai tập đoàn 100% vốn Nhà nước, có sản xuất nhiệt điện than nhưng thị phần rất nhỏ, bán cho EVN. Ở thị trường bán lẻ thì EVN độc quyền 1 người bán cho nhiều triệu người mua.
Vì Bộ Công Thương cần bảo vệ lợi ích của EVN, PVN và TKV.
TT/ST 82: Vì giá điện ở Việt Nam thuộc loại rẻ nhất thế giới, cho dù có tính theo lũy tiến sử dụng và vào giờ cao điểm thì giá cao. Những ngành công nghiệp nặng tiêu thụ nhiều điện năng như sắt thép, xi măng, hóa chất… đang nở rộ ở Việt Nam. Vì điện giá rẻ nên hầu hết người sử dụng chẳng có ý thức sử dụng tiết kiệm. Nên Việt Nam cũng là nước có bình quân điện năng sử dụng lãng phí, không hiệu quả, thất thoát cao nhất Thế giới (25% – 35%).
TT/ST 83: Vào năm 2030, tỷ lệ lãng phí, thất thoát giảm xuống 17% chúng ta vẫn vô cảm đập phá đi 10 nhà máy thủy điện Sơn La, hoặc 11 nhà máy nhiệt điện than hiện đại Vĩnh Tân 4.
TT/ST 84: Trong giai đoạn 10 năm (2020 – 2030) chúng ta sẽ vô tư đập phá tổng cộng khoảng 70 nhà máy thủy điện Sơn La, hoặc 80 nhà máy điện than Vĩnh Tân 4!!!. Trong khi EVN, PVN và TKV vẫn say sưa đi vay vốn ưu đãi được Chính phủ bảo lãnh, nợ ngập đầu, tiếp tục đầu tư xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới để tiêu thụ than “không được hoan nghênh” trên Thế giới. Tính đến tháng 6/2016, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nợ 475.000 tỷ đồng, Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam (TKV) nợ 100.000 tỷ đồng, PVN mất trắng chục nghìn tỷ đồng ở Venezuela.
TT/ST 85: VIỆT NAM LÀ NƯỚC DUY NHẤT TRÊN THẾ GIỚI KHÔNG ĐỂ GIÁ CẢ PHẢN ÁNH SỰ THẬT KINH TẾ VÀ SỰ THẬT SINH THÁI.
TT/ST 86: VIỆT NAM CŨNG LÀ NƯỚC DUY NHẤT TRÊN THẾ GIỚI ĐÃ HẠ THẤP TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG (QCVN) ĐỂ HỦY DIỆT MÔI TRƯỜNG.
TT/ST 87: VIỆT NAM CŨNG LÀ NƯỚC DUY NHẤT CHỈ TRONG VÒNG CÓ 30 NĂM PHÁT TRIỂN ĐÃ TRỞ THÀNH CƯỜNG QUỐC UNG THƯ.
VI. NGHỊCH LÝ KHOA HỌC VỀ THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG (BVMT) Ở VIỆT NAM:
VỀ THAN: Như đã nêu ở mục II, TT/ST 31 bình quân 1 triệu tấn than có chứa rất nhiều các kim loại nặng độc hại: 104kg thủy ngân, 7.509 kg Arsen, 1.111 kg Beryllium, 714kg Cadmium, 8.390kg Crom, 8.894kg Nickel, 2.464kg Selenium.
Bình quân đốt 1kg than trong nhiệt điện than sẽ thải vào môi trường 1,9kg – 2,1kg khí CO2 và khoảng 100g các khí độc hại NOx, SOx + 317g tro bay (fly ash) + 159g tro đáy (bottom ash). Các kim loại nặng nói trên không biến mất đi đâu cả, chúng ở trong tro bay và tro đáy.
TT/ST 88: Khí CO2 là khí không độc, là dưỡng chất cơ bản của mọi loài thực vật, luôn có ở xung quanh ta, nhưng là khí hiệu ứng nhà kính, khi nồng độ tích tụ cao trong khí quyển sẽ ngăn cản bức xạ nhiệt của Trái đất thoát vào vũ trụ, do vậy làm cho Trái đất nóng dần lên.
TT/ST 89: VỀ DẦU DIESEL: Năm 2018, ước tính cả nước tiêu dùng 8,5 triệu tấn (cho xe tải, xe buýt). Bình quân đốt 1 lít dầu diesel sẽ thải vào môi trường 2,7 kg CO2 , hơi nước (H2O) và 5,6g khí độc SOx (vì dầu diesel của ta rất bẩn, rẻ nhất Thế giới, chứa hàm lượng lưu huỳnh cao 2,5g/L). Vì lượng tiêu thụ dầu diesel rất nhỏ so với than và nếu chúng ta nhập khẩu loại dầu “đắt” hơn chút ít, chỉ chứa lưu huỳnh 0,5g/L thì vấn đề môi trường không đáng quan ngại. Có thể nói là rất sạch so với than.
TT/ST 90: VỀ XĂNG: Năm 2018, ước tính cả nước tiêu dùng 6,5 triệu tấn. Bình quân đốt 1 lít xăng thải vào môi trường 2,3 kg CO2, hơi nước (H2O). Hầu như không gây ô nhiễm môi trường, siêu sạch so với than.
Thực hiện cam kết cắt giảm phát thải khí CO2 theo thỏa thuận Paris 2015, rất nhiều nước trên Thế giới đã thu phí phát thải CO2, trung bình từ 10 USD –30 USD/tấn CO2 phát thải. Ở Việt Nam hoàn toàn không thực hiện thu phí phát thải CO2 đối với than và xăng dầu.
TT/ST 91: Thuế suất BVMT giữa than và xăng nhiều năm qua luôn là một nghịch lý khoa học của ngành thuế Việt Nam. Đốt 1 kg than gây ô nhiễm môi trường nặng nề hơn đốt 1 kg xăng (có thể coi là sạch, vì đạt chuẩn EURO 4). Tuy nhiên, thuế BVMT đánh vào xăng hiện đang là 3.000đồng/L (tương đương 4.054đ/kg) cao gấp 405 lần so với than chỉ có 10đồng/kg (10.000 đồng/tấn). Bộ Tài chính đã đề xuất mức thuế mới sẽ áp dụng từ tháng 7/2018 như ở bảng dưới đây:
TT/ST 92: Một nghịch lý khoa học của thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, bất chấp khoa học và công nghệ luôn là quốc sách và tổng chi trung bình hàng năm cho phát triển KH&CN là 2% tổng chi NSNN. Năm 2016 chi cho KH&CN khoảng 25.000 tỷ đồng.
Luật thuế Bảo vệ Môi trường đã rất đắc lực giúp cho nhiệt điện than phát triển, hủy diệt sức khỏe và môi trường sinh thái, làm chết sớm 25.000 người/năm vào năm 2030, gây thiệt hại to lớn về kinh tế cho đất nước.
TT/ST 93: Nếu chúng ta đổi mới thuế BVMT cho phù hợp với bản chất khoa học của chất gây ô nhiễm, có nghĩa là chính sách thuế tôn trọng những giá trị sinh thái của xã hội, tôn trọng phương châm phổ quát của toàn Thế giới “chất gây ô nhiễm nhiều hơn phải chịu thuế BVMT cao hơn”.
Cần phải làm cách mạng trong Luật thuế BVMT, chỉ với 3 thuế suất sau: Xăng giảm về 1.000đồng/L, dầu diesel giảm về 1.500đồng/L, than tăng lên 2.000đồng/kg, điện xanh, điện sạch sẽ thăng hoa, nở rộ, sức khỏe con người và môi trường sinh thái sẽ cải thiện rõ rệt, thu NSNN sẽ tăng lên gấp 3 – 4 lần:
VII. GIẢI PHÁP NÀO ĐẢM BẢO AN NINH NĂNG LƯỢNG CHO VIỆT NAM?
Đó là chung vai sát cánh cùng Thế giới, đi cùng với Thế giới, học tập kinh nghiệm của họ và làm theo họ. Đó là đánh thuế phát thải CO2 và thuế BVMT đối với than, xăng, dầu (xem Phương án A ở dưới). Đơn giản là đặt các sản phẩm này trên cùng một mặt bằng giá sinh thái. Thị trường sẽ tự điều chỉnh, quyết định sự phát triển của điện đốt than, điện đốt khí tự nhiên (sạch), khí hóa lỏng (sạch), hay điện NLTT (thủy điện, sinh khối, gió, mặt trời, sóng biển, địa nhiệt) các sản phẩm sẽ tự cạnh tranh bình đẳng với nhau không cần bàn tay can thiệp của Nhà nước. Nguồn cung điện sẽ nhiều và dồi dào. EVN sẽ nhàn hạ, chỉ việc ngồi mà chọn mua giá điện từ thấp lên cao. Các quan chức của Tổng cục Năng lượng thuộc Bộ Công thương cũng nhàn hạ hơn, không phải “bốc thuốc” để hình thành cơ cấu các loại điện năng, kiểu như vào năm 2030 nhiệt điện than sẽ là 59%, điện khí tự nhiên và khí hóa lỏng là 16,8%, thủy điện 15,5%, điện sinh khối 2,1%, điện gió 2,1%, điện mặt trời 3,3%.... Quan chức quản lý giá của Bộ Tài chính chịu hy sinh chút quyền lợi được ban phát giá cả. Đổi lại nền kinh tế đất nước không bị méo mó, sẽ cất cánh. Điện năng sẽ được sử dụng rất hiệu quả và rất tiết kiệm. Trong 10 năm (2020 – 2030) chúng ta sẽ không bị tổn thất, lãng phí tương đương 70 nhà máy thủy điện Sơn La hoặc 80 nhà máy nhiệt điện than Vĩnh Tân 4. Số người chết yểu vì nhiệt điện than sẽ giảm mạnh. Mẹ Thiên nhiên - Việt Nam đỡ bị tàn tạ hơn.
TT/ST 94: Các nước Châu Âu chìm sâu trong băng tuyết mùa đông đã đảm bảo an ninh năng lượng, không phải bằng tăng CUNG, mà bằng đánh thuế BVMT và phát thải khí CO2 để GIẢM cầu tiêu thụ nhiên liệu trung bình xuống 2,6% và giảm lượng khí thải từ 2 - 6%/năm trong khi đã là làm gia tăng 0,5% GDP, an sinh xã hội luôn đảm bảo, người nghèo luôn có đủ điện để dùng và sưởi ấm.
TT/ST 95: Chính phủ Australia đánh thuế phát thải khí các bon rất cao, 23 đôla Úc/1 tấn CO2 cho 3 năm đầu tiên phát thải, các năm sau sẽ tăng lên 25,94 - 27,2; Chính phủ Mỹ đánh thuế 20 USD/1 tấn CO2; các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương bình quân 10 USD/1 tấn CO2.
Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ:
Phương án A):
Để nền kinh tế đất nước bay cao hơn, xa hơn, điện sạch đủ dùng sẽ thăng hoa cất cánh, chỉ cần thực hiện 3 việc sau:
Công khai hóa, minh bạch, đơn giản trong thủ tục đầu tư, sẽ có rất nhiều dự án xin làm điện sạch với giá thành thấp nhất đổ về Bộ Công thương.
Khi đó cơ cấu (tỷ trọng) các loại điện: Nhiệt điện than, điện khí ga, thủy điện, điện sinh khối, điện gió, điện mặt trời, điện sử dụng năng lượng biển, địa nhiệt… sẽ do thị trường điều tiết. EVN sẽ mua điện từ giá thấp đến cao, cho đến khi đủ dùng. Vì là thị trường độc quyền 1 người mua, đòi hỏi EVN phải công tâm và tuân thủ những nguyên tắc cơ bản/qui định của Nhà nước về cạnh tranh, chống độc quyền.
Khi này giá điện sẽ phản ánh đầy đủ giá trị sinh thái, điện cho sản xuất và cho tiêu dùng sinh hoạt sẽ được sử dụng hợp lý hơn, tiết kiệm hơn, tỷ lệ thất thoát lãng phí sẽ giảm đáng kể.
Phương án B): Nếu quan chức Bộ Công thương và Bộ Tài chính vẫn muốn duy trì quyền lực quản lý như cũ, giá nhiệt điện than bẩn nhất, nguy hại nhất, không chịu thuế BVMT (15đồng/kg coi như không có thuế), không thuế phát thải CO2 vẫn là giá rẻ nhất, “bóp chết” tất cả các loại điện sạch (ngoại trừ thủy điện).
Để có một cơ cấu sản lượng điện sạch, phù hợp với xu thế phát triển điện năng bình quân của Thế giới, Việt Nam nên thực hiện như sau: Tỷ trọng nhiệt điện than vào năm 2030 sẽ khoảng 25% (bằng với bình quân chung toàn Thế giới), tỷ trọng điện khí ga (điện sạch) khoảng 35 - 37%, thủy điện khoảng 18 - 20%, còn lại tổng điện gió và mặt trời khoảng 20 - 22%. Phương án này sẽ nâng cao tỷ trọng điện sạch lên 75%, còn lại điện than bẩn là 25%. Tuy nhiên, giá nhiệt điện than vẫn là giá phi sinh thái, hủy hoại môi trường nên sẽ rất rẻ so với điện sạch. Do vậy để điện sạch phát triển, Nhà nước cần phải nâng giá mua điện sạch để các nhà đầu tư có lãi tối thiểu, để giảm thiểu lãng phí, thất thoát, không hiệu quả trong sử dụng điện.
Oystein Dahle, cựu Phó Chủ tịch Tập đoàn dầu khí EXXON, Na-Uy: “Socialism collapsed because it did not allow prices to tell the economic truth. Capitalism may collapse because it does not allow prices to tell the ecological truth” “Chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ vì không để giá cả phản ánh sự thật kinh tế. Chủ nghĩa tư bản có thể sụp đổ nếu không để giá cả phản ánh sự thật sinh thái” |
Nguyễn Đức Thắng, Hà Nội, ngày 08/01, bổ sung 25/5 và 29/6 năm 2018.