Hà Nội 27/4/2018
Kính gửi: |
- TS. Nguyễn Xuân Quang - TS. Nguyễn Thành Sơn, Nguyên Trưởng ban CL và KH&CN tập đoàn TKV Nguyên TGĐ công ty CP nhiệt điện Cẩm Phả, Giảng viên trường Đại học Điện lực - ThS. Nguyễn Nhật Đình, Trưởng ban Liên lạc cựu “học sinh” AIT, Bangkok, Thailand |
Thưa các anh,
Tôi đã viết bài “Qui hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến năm 2030 là qui hoạch hủy diệt sức khỏe và môi trường sinh thái, đổi lấy kinh tế không hiệu quả” rất nghiêm túc và tâm huyết, gửi những người yêu Môi trường và Khoa học. Sau đó tôi cũng đã in ra gửi Thủ tướng Chính phủ và một số cơ quan liên quan. Tôi đã nhận được các anh góp ý, nhưng rất chung chung, nói “vo”, không đi vào từng Thực tế/Sự thật mà tôi đã viết; cụ thể như tô vàng dưới đây:
“Bàn luận cái gì cũng phải cần chứng cứ khoa học, không thể nói theo cảm tính như trong bài viết rất tầm thường này”,
“Những thông tin vỉa hè và báo lá cải và do đó dễ bị các luồng thông tin không chính thống lôi kéo. Các luồng thông tin vỉa hè này ra rả chửi bới Nhiệt điện than”
“Tôi thành thực khuyên EVN để cho tỉnh Bạc Liêu ngắt ra khỏi lưới quốc gia và tự múa với 200 MW điện gió, tạo ra show case cho cả thế giới lác mắt khi một tỉnh của VN hoàn toàn dựa vào NLTT, điện sạch. Đảm bảo sau 3 ngày toàn bộ lãnh đạo Bạc Liêu quỳ mọp dưới chân TGĐ EVN xin đấu lại lưới quốc gia để hưởng hương hoa của điện bẩn”
“NLTT rất sạch, và với VN còn rất đắt. Nền kinh tế VN không chịu nổi”
Còn về khí nhà kính:
+ Trước hết, cách tính về lượng phát thải CO2 khi đốt than của anh là còn thấp (sai). Về cân bằng hóa học và cân bằng vật chất, cứ đốt 1kg than (C) sẽ thải ra 3,7kg CO2. Tương tự, với dầu mỏ và khí đốt ta cũng tính được.
10 nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất được xếp lần lượt như sau:
* Các đại dương đang thải vào khí quyển 480-800 tỷ tấn/năm;
* Các vi sinh vật: 300-370 tỷ tấn/năm;
* Các loại côn trùng: 220-330 tỷ tấn/năm;
* Băng vĩnh cửu: 70-110 tỷ tấn/năm;
* Núi lửa: 40-70 tỷ tấn;
* Động vật có vú: 30-55 tỷ tấn/năm
* Ngành chăn nuối gia súc: 25-32 tỷ tấn
* Đốt nhiên liệu hóa thạch (năm 2013): 32 tỷ tấn (than- 14 tỷ tấn, dầu mỏ- 11 tỷ tấn, khí- 7 tỷ tấn).
Như vậy, tính cả dầu mỏ và khí, thì việc đốt nhiên liệu hóa thạch chỉ tương đương với ngành chăn nuôi trong nông nghiệp. Còn việc đốt than xếp thứ 8/10.
Trước đây, trong những thời kỳ kiến tạo của trái đất thì cũng đã có nhiều lần hiệu ứng nhà kính đã diễn ra và tạo ra những thời kỳ đen tối cho các loài động thực vật. Nguyên nhân của những lần đó là do núi lửa phun trào. Sự đóng góp của núi lửa phun vào hiệu ứng nhà kính là rất lớn. Đợt phun trào núi lửa năm 2000 tại Indonesia cũng đóng góp một lượng khí nhà kính đáng kể vào trái đất.
Thưa các anh,
Như vậy là các anh góp ý rất chung chung, trong gần 100 THỰC TẾ/SỰ THẬT mà tôi đã nêu, các anh không chỉ ra được một điều nào sai. Xin cám ơn anh.
Sau đây, tôi mạn phép lần lượt phúc đáp, phân tích cụ thể từng ý kiến của các anh, những cây đa đại thụ của ngành Năng lượng Việt Nam:
“NLTT rất sạch, và với VN còn rất đắt. Nền kinh tế VN không chịu nổi.”
Cái gọi là nhiệt điện than rẻ nhất ở Việt Nam (chỉ sau thủy điện) là giá ảo, đối chọi với qui luật “Giá cả phải phản ánh sự thật kinh tế” và qui luật “Giá cả phải phản ánh sự thật sinh thái”. Nhiệt điện than rõ ràng là gây ô nhiễm môi trường nặng nề nhất + hủy hoại sức khỏe con người và các hệ sinh thái lớn nhất + phát thải CO2 là cao nhất nhưng chỉ chịu thuế BVMT có 10đồng/kg (10.000đ/tấn, coi như bằng 0), trong khi đốt xăng sạch hơn than rất nhiều (đạt chuẩn EURO 4), nhưng đang chịu thuế BVMT là 3.000đồng/L (tức 4.054đồng/kg), tức 405 lần cao hơn than. Thuế phát thải CO2 cũng bằng 0 luôn. Đó là một NGHỊCH LÝ KHOA HỌC Thuế BVMT của Việt Nam. Tiêu chuẩn môi trường (QCVN) cho nhiệt điện than cũng được lới lỏng.
Các tổ chức quốc tế đưa ra ước tính rằng mỗi kWh nhiệt điện than làm tốn chi phí y tế đến 0,17 đô la Mỹ (Kinh tế Sài Gòn, thứ 6, ngày 17/2/2017). Theo Qui hoạch điện lực quốc gia VII điều chỉnh (Quyết định số 428/2016/QĐ-TTg), sản lượng điện than vào các năm 2020, 2025 và 2030 lần lượt 131 tỷ kWh, 220 tỷ kWh, 304 tỷ kWh sẽ tạo ra tổng chi phí y tế lần lượt là 22,3 tỷ USD, 37,4 tỷ USD và 51,7 tỷ USD. Như vậy, một nguồn lực rất lớn của đất nước sẽ được thu hút về cho ngành điện than và y tế.
Thế mà điện NLTT siêu sạch, không được bất cứ một ưu ái gì, nhờ sự cố gắng phi thường của KH&CN Thế giới trong điện NLTT nên giá thành của nó đang tiệm cận đến cái giá “siêu bẩn, bao cấp, ưu ái” của nhiệt điện than. Không những thế, giá nhiệt điện than rẻ nhất đó còn là giá độc quyền nữa. Giá EVN mua điện các loại từ EVN, PVN, TKV đều do một vài quan chức của Bộ Tài chính và Bộ Công thương quyết, trình lên Thủ tướng Chính phủ ký, sau đó cứ thế mà thi hành. Chỉ vài cá nhân này đã tạo ra giá điện than rẻ nhất Thế giới, làm méo mó toàn bộ nền kinh tế, vì điện là ngành kinh tế trụ cột của đất nước.
Các anh nói “Nền kinh tế VN không chịu nổi”. Vâng thế mà nền kinh tế Việt Nam trong 10 năm, từ 2020 – 2030, với tỷ lệ thất thoát, lãng phí điện là 25% - 17% sẽ vô tư, thoải mái đập phá đi 70 nhà máy thủy điện Sơn La, hoặc 80 nhà máy nhiệt điện than hiện đại Vĩnh Tân 4.
“Trước hết, cách tính về lượng phát thải CO2 khi đốt than của anh là còn thấp (sai). Về cân bằng hóa học và cân bằng vật chất, cứ đốt 1kg than (C) sẽ thải ra 3,7kg CO2. Tương tự, với dầu mỏ và khí đốt ta cũng tính được.”
Anh Sơn đã sai cơ bản. Vì sao lại là sai cơ bản? Vì một cây đa trong ngành than, bao nhiêu năm lăn lộn với ngành than mà lại đồng nhất THAN với CACBON. Bất kỳ một cháu học sinh trung học phổ thông nào cũng có thể viết được phản ứng hóa học C + O2 = CO2 + nhiệt năng. Khi gắn nguyên tử lượng vào ta được C(12g) + O2 (2x16g) = CO2 (44g). Từ đó tính được 1kg CACBON cho ta 3,7kg CO2 (44/12 = 3,7) như anh đã tính. Tuy nhiên đây là phản ứng của CACBON với ô xy.
Còn THAN là một MỚ HỔN HỢP CÁC CHẤT HỮU CƠ (có chứa các nguyên tố cacbon, hydro, ô xy, lưu huỳnh ….) được hình thành từ xác các thân cây gỗ bị chôn vùi hàng triệu năm trong lòng đất (dưới áp suất cao, nhiệt độ cao). Khi than sạch đất, cát, khoáng chất khác thì:
1kg than bùn thường chứa 40 – 50% cacbon, còn lại là hydro, ô xy và lưu huỳnh.
1kg than nâu (lignite) thường chứa 60 – 75% cacbon
1kg than bituminous coal thường chứa 40 – 80% cacbon
1kg anthracite coal thường chứa 80 – 90% cacbon
Với tỷ lệ cacbon là 40% thì 1kg THAN khi cháy sẽ xả thải 40% x 3,7kg = 1,48kg CO2, tương tự khi cacbon chiếm tỷ lệ 90% sẽ là 3,33kg CO2 với điều kiện là than phải sạch các loại đất, đá, khoáng chất khác. Mọi người đều biết là than sử dụng trong các nhà máy nhiệt điện than làm sao mà sạch tuyệt đối đất, đá và khoáng chất khác.
Như vậy, mãi mãi và không bao giờ có chuyện đốt 1kg THAN cho 3,7 kg CO2.
Đồng nhất THAN/COAL (hỗn hợp các chất hữu cơ) với CACBON là một sai lầm cơ bản.
10 nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất được xếp lần lượt như sau:
* Các đại dương đang thải vào khí quyển 480-800 tỷ tấn/năm;
* Các vi sinh vật: 300-370 tỷ tấn/năm;
* Các loại côn trùng: 220-330 tỷ tấn/năm;
* Băng vĩnh cửu: 70-110 tỷ tấn/năm;
* Núi lửa: 40-70 tỷ tấn;
* Động vật có vú: 30-55 tỷ tấn/năm
* Ngành chăn nuối gia súc: 25-32 tỷ tấn
* Đốt nhiên liệu hóa thạch (năm 2013): 32 tỷ tấn (than- 14 tỷ tấn, dầu mỏ- 11 tỷ tấn, khí- 7 tỷ tấn).
Như vậy, tính cả dầu mỏ và khí, thì việc đốt nhiên liệu hóa thạch chỉ tương đương với ngành chăn nuôi trong nông nghiệp. Còn việc đốt than xếp thứ 8/10”.
Tôi đã cộng số liệu của các anh (đại dương, băng vĩnh cửu, núi lửa, vi sinh vật, côn trùng, động vật có vú, gia súc) và được 1165 - 1770 tỷ tấn/năm. Ta lấy trung bình cộng là (1165 + 1770)/2 = 1.468 tỷ tấn CO2/năm
Trái ngược, theo IEA tổng lượng phát thải CO2 toàn cầu do mọi hoạt động phát triển của con người (HUMAN/ANTHROPOGENIC ACTIVITIES) trong năm 2015 là 32,3 tỷ tấn CO2. Trong đó toàn ngành năng lượng (nhiên liệu hóa thạch: than, dầu và khí) khoảng 22 tỷ tấn, chiếm 68%. Trong 22 tỷ tấn CO2 này thì ngành than phát thải 9,9 tỷ tấn, chiếm 45% của toàn ngành năng lượng, bằng 31% của toàn cầu (9,9/32,3).
Vậy tại sao tất cả các nhà khoa học trên Thế giới lại không đổ lỗi cho đại dương, băng vĩnh cửu, núi lửa, vi sinh vật, côn trùng, động vật có vú, gia súc?
Mong anh cho biết các nguồn trích dẫn được không, tài liệu nào? Chứng tỏ các anh rất TRUNG THÀNH bảo vệ nhiệt điện than đến mức bịa ra những thông tin để qui kết tội cho đại dương, băng vĩnh cửu, núi lửa, vi sinh vật, côn trùng, động vật có vú, gia súc phát thải 1.468 tỷ tấn CO2/năm!!!
Hiệp hội Năng lượng Việt Nam bảo vệ một bản Qui hoạch điện lực quốc gia bằng những thông tin không thể kiểm chứng được, để hù dọa những ý kiến trái chiều thì thật là đáng buồn.
Tôi chưa bao giờ thấy những thông tin tâm thần này. Xin lỗi các anh là phải gọi như vậy, vì nó quá phản khoa học, không những ở con số mà là cả ở bản chất của vấn đề. Nếu Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cử khoảng 100 nhà khoa học lớn, các anh chia nhau ra, đi vào khắp các thư viện, các trường đại học, viện nghiên cứu ở tất cả các nước văn minh, các nước TBCN sinh thái trên toàn Thế giới, lục tung lên tìm kiếm cũng không thể thấy những thông tin như vậy. Vì:
Đại dương, núi lửa tồn tại nhiều trăm triệu năm rồi, vĩnh cửu rồi. Vi sinh vật, côn trùng, động vật có vú cũng tồn tại nhiều trăm triệu năm rồi, vĩnh hằng rồi. Suốt nhiều trăm triệu năm năm qua, đại dương, núi lửa, băng đá, vi sinh vật, côn trùng, động vật có vú đâu có làm cho nồng độ CO2 trong khí quyển tăng lên, đâu có làm cho Trái đất nóng lên, nhiệt độ đâu có tăng!
Trong tổng các khí hiệu ứng nhà kính GHG (GreenHouse Gases), khí CO2 chiếm 90%, CH4 chiếm 9%, N2O là 1%. Khí CO2 và CH4 đều có chung nguyên tố cacbon và nồng độ của CH4 là quá nhỏ, nên được gộp lại, gọi chung là CO2tương đương, CO2eq, hoặc đơn giản hơn vẫn là CO2. Bảng dưới là nồng độ mà các nhà khoa học Thế giới đo đạc và tính toán được, có có đầy ở trên mạng:
Tất cả các nhà khoa học và chính trị gia trên Thế giới chỉ quan tâm đến phát thải CO2 từ năm 1900 trở lại đây mà thôi. Vì trong suốt ngàn, vạn năm trước đó nồng độ bình quân CO2 trong khí quyển và nhiệt độ bình quân của Trái đất là ỔN ĐỊNH.
Thế mà chỉ từ năm 1900 đến năm 2018, nhiệt độ trung bình của Trái đất đã tăng lên hơn 1oC.
Theo các anh “đại dương, băng vĩnh cửu, núi lửa, vi sinh vật, côn trùng, động vật có vú, gia súc phát thải 1.468 tỷ tấn CO2/năm?.” Hàng vạn nhà khoa học trên Thế giới đã không có mắt để biết điều này. Tất cả họ đã hơn 20 năm qua chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích mẫu, tính toán vào sự gia tăng, tích tụ khí CO2 là DO CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI GÂY RA thông qua các hoạt động như công nghiệp, nông, lâm, ngư, giao thông vận tải, sinh hoạt. Do lạm dụng đốt quá nhiều các nhiên liệu hóa thạch, chặt phá rừng thoải mái. Chuyển đổi quá nhiều đất rừng thành đất trồng cao su, cà phê, hạt tiêu, mía, sắn để sản xuất ethanol pha trộn làm xăng E5. Các thảm thực vật rừng đã bị đào bới, cầy cuốc chết hết, trơ lộ đất tơi bị đập vụn, sẽ nhanh chóng bị mưa, lũ rửa trôi, ào ạt đổ bùn đất đỏ về miền xuôi. Vì vậy, khả năng hấp thụ CO2 của thảm thực vật rừng bị suy giảm nhanh chóng. Nhiều ruộng lúa, mặt nước cũng nhanh chóng chuyển đổi thành đất đô thị. Trên phạm vi cả nước, đặc biệt là các đô thị lớn, các quan chức địa phương và cán bộ địa chính đất đai đam mê chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Người nông dân có quyền sử dụng đất nông nghiệp, có sổ đỏ trong tay, nhưng quyền bán đất nông nghiệp cho các công ty kinh doanh lại thuộc về các quan chức địa phương. Nếu người dân chống lại sẽ bị công an, cảnh sát bắt giam.
Ngoài ra, rất nhiều đất nông nghiệp cũng nhanh chóng bị chuyển đổi thành đường BOT mới, gần như “song song” với đường quốc lộ cũ. Vì bản chất Mafia của vị trí đặt trạm thu phí BOT, nên người dân không đi đường mới, chỉ đi đường cũ cũng phải nộp phí BOT, nếu phản ứng, gây rối sẽ bị công an bắt, vậy tội gì mà không đi đường mới? Đường quốc lộ cũ thành ra thừa. Như vậy chúng ta đâu có thiếu đường bộ? Lãng phí đất đai trong giao thông cũng làm gia tăng phát thải CO2.
Dưới đây là ví dụ một tài liệu hay phát thải cacbon toàn cầu. Một công trình, một bài báo mà có đến 34 nhà khoa học đến từ 24 viện, trường khác nhau ở trên Thế giới tham gia:
34 nhà khoa học quốc tế, chưa kể hàng trăm nhà khoa học quốc gia, làm việc bao nhiêu tháng ngày mới tính toán ra 5 x 6 = 30 số liệu như dưới đây. Tôi đã sưu tập và đưa vào bảng tính Excel cho thuận tiện khai thác:
30 số liệu trong bảng trên, cho suốt giai đoạn 50 năm, đủ nói nên những đặc điểm cơ bản của phát thải CO2 toàn cầu, từ đâu mà có CO2. Dòng khí phát thải này sau đó đi đâu, về đâu…? Rõ nhất là xu hướng tăng phát thải liên tục của các ngành năng lượng, công nghiệp các loại, giao thông vận tải, đã làm tăng tổng lượng CO2 tích đọng trong khí quyển.
Theo bảng ấy, từ năm 2002 – 2011, trung bình mỗi năm, toàn Thế giới phát thải ra 34,04 tỷ tấn CO2/năm. Nói ngắn gọn là do các hoạt động của con người tạo ra (human/anthropogenic activity).
Các anh cần góp ý cho các chuyên gia quốc tế để họ bổ sung thêm các hoạt động phát thải của đại dương, băng vĩnh cửu, núi lửa, vi sinh vật, côn trùng, động vật có vú, gia súc là 1.468 tỷ tấn CO2/năm. Con số 34,04 tỷ tấn của họ là quá nhỏ bé, do vậy có thể bỏ qua được, chỉ lấy số lớn của các anh để báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Khoa học năng lượng đất nước mình ngộ quá phải không các anh?
Còn nữa, chưa hết!
Mong các anh thử suy đoán nếu mỗi năm Thế giới vô sinh và hữu sinh phát thải vào khí quyển 1.468 tỷ tấn CO2/năm >> 34 tỷ tấn, trong chỉ có 50 năm gần đây thôi, thì Trái đất sẽ ra sao? Động vật và thực vật có phát điên vì nóng? Mọi băng tuyết vĩnh cửu ở cả 2 cực của Trái đất có tan hết không? Và mức nước đại dương sẽ dâng ngay lên đến 1m?
Thưa các anh,
Hiện nay chúng ta đang quen sống coi môi trường và các hệ sinh thái là nơi để chúng ta đang tranh cướp nhau, đào bới nhiều tỷ tỷ tấn tài nguyên lên để thụ hưởng, sau đó lại đổ cả tỷ tỷ tấn rác rưởi bẩn thỉu vào môi trường và các hệ sinh thái. Như vậy là chúng ta đã 2 lần cướp bóc, trấn lột Môi trường và các hệ sinh thái.
Cũng theo bảng trên, từ năm 2002 – 2011, trung bình mỗi năm các hệ sinh thái đại dương và nước ngọt đã “nuốt” vào 9,17 tỷ tấn khí thải này. Dịch vụ này nếu qui đổi ra tiền có khi đến vài ngàn tỷ USD. Các hệ sinh thái trên cạn cũng đã “nuốt vào” 9,53 tỷ tấn. Còn lại 15,76 tỷ tấn đành ở lại trong khí quyển, tích tụ lại, lớn dần lên đe dọa sự tồn vong của loài người. Từ đó cho thấy giá trị của các hệ sinh thái là quá to lớn, không thể trà đạp lên các hệ sinh thái.
Đại dương và các hệ sinh thái có công lao rất lớn như vậy, giúp cho loài người được sống, tiêu dùng như hiện nay, thế mà các anh lại kết tội cho chúng là xả thải khủng khiếp (* Các đại dương đang thải vào khí quyển 480-800 tỷ tấn/năm). Xin lỗi cho tôi dùng hình ảnh “vừa ăn cướp vừa la làng”, có quá nhiều bất công ở Việt Nam. Vì các anh là những nhà khoa học đại thụ của ngành năng lượng Việt Nam nên tôi đã công phu sưu tập những số liệu trên để thuyết phục, minh chứng. Còn căn cứ theo kiến thức Vật lý rất cơ bản không thôi cũng đã đủ thấy ý kiến của các anh là rất sai, nên tôi đã trả lời “hóm hỉnh” ở email trước như sau:
“Thưa các anh là ngay tại bề mặt tiếp giáp giữa không khí và nước biển, đại dương nồng độ khí CO2 đã ngàn vạn năm luôn ổn định ở mức 0,028% (280ppm), đó là nồng độ trung bình khí CO2 trong khí quyển Trái đất. Tại bề mặt tiếp giáp này, các phân tử khí CO2 luôn thích “chui vào nước biển tắm rồi lại bay ra”, cứ 100 phân tử từ không khí chui vào, thì có khoảng 90 phân tử bay ra, 10 phân tử ở lại trong nước biển, không muốn trở về khí quyển”. Thế là đủ hiểu đại dương, mặt nước là nguồn hấp thụ khí CO2 rồi.
Dưới đây là hình vẽ minh họa cho các hệ sinh thái trên Trái đất thực hiện các dịch vụ của chúng, các dòng phát thải CO2 và những nơi xử lý chúng. Tất cả chỉ có 2 dòng xả thải và 2 dòng hấp thụ, còn lại tồn lưu, tích tụ và lớn dần lên trong khí quyển.
Lưu ý: Tại hình vẽ này, số liệu xả thải tính theo đơn vị tỷ tấn cacbon/năm. Để chuyển đổi sang đơn vị CO2 ta phải nhân thêm với hệ số 3,666, vì phân tử lượng của CO2 (44) gấp 3,666 lần nguyên tố cacbon (12).
Về núi lửa phát thải CO2 “*Núi lửa: 40-70 tỷ tấn”, “Trước đây, trong những thời kỳ kiến tạo của trái đất thì cũng đã có nhiều lần hiệu ứng nhà kính đã diễn ra và tạo ra những thời kỳ đen tối cho các loài động thực vật. Nguyên nhân của những lần đó là do núi lửa phun trào. Sự đóng góp của núi lửa phun vào hiệu ứng nhà kính là rất lớn. Đợt phun trào núi lửa năm 2000 tại Indonesia cũng đóng góp một lượng khí nhà kính đáng kể vào trái đất”.
Mong các anh giải thích hộ cơ chế nào mà các nham thạch núi lửa tạo ra khí CO2? Như vậy, có nghĩa là chỉ những vùng có than (chứa cacbon) mới có núi lửa?
Chưa cần lượng hóa, tính toán là bao nhiêu CO2, bằng kiến thức cơ bản chúng ta thấy ngay là quá vô lý. Vì như đã phân tích ở trên, chỉ có các chất hữu cơ có chứa nguyên tố cacbon (than, khí tự nhiên, dầu mỏ, trung bình 40 – 85% cacbon) khi cháy ở miệng núi lửa với ô xy mới tạo ra CO2 mà thôi. Như vậy, sâu bên dưới của tất cả các miệng núi lửa có trên Trái đất phải toàn là những “mỏ than” khổng lồ.
Theo Công ty Than Mạo Khê - TKV cuối năm 2014 đầu tư cho cặp giếng đứng dự án khai thác hầm lò sâu 400m, công suất thiết 2 triệu tấn/năm, bao gồm 18 vỉa than, là dự án có tầm quan trọng quyết định đến sự phát triển của Công ty. Năm 2019 sẽ đi vào vận hành. Như đã nói ở trên, trung bình đốt 1 triệu tấn than tạo ra 1,9 triệu tấn CO2. Giả sử toàn hầm lò than cháy là miệng núi lửa, giả sử hoạt động liên tục trong suốt cả năm, cũng chỉ thải ra 2 triệu tấn x 1,9 triệu tấn CO2 = 3,8 triệu tấn = 0,0038 tỷ tấn CO2. Hiện toàn Trái đất có khoảng 1000 núi lửa hoạt động, giả sử tất cả đều có than chất lượng cao và nhiều như Mạo Khê, thì cũng chỉ tạo ra tối đa 3,8 tỷ tấn mà thôi. Lấy đâu ra 40-70 tỷ tấn? Xin kính nể các nhà khoa học năng lượng Việt Nam về trí tưởng tượng!
Về cấu tạo bên trong của Trái đất mọi người đều biết: Từ vỏ vào tâm, thường lớp đầu tiên bao giờ cũng chứa lớp đất mùn, các hợp chất hữu cơ (xác động, thực vật chôn vùi, phân hủy ngàn vạn năm, có nơi cả triệu năm, trong đó có THAN) trộn lẫn đất, cát, sỏi, đá… vì trên bề mặt Trái đất thực vật và động vật đã phát triển từ nhiều triệu năm trước. Có chỗ có vỉa than, dày mỏng khác nhau, có chỗ không có.
Đi sâu nữa vào bên trong Trái đất, vùng nhiệt độ từ 1500oC – 4500oC toàn là những hỗn hợp kim loại nóng chảy chứa các nguyên tố hóa học như Si, Fe, Al, Ca, Mg, Ni, Mn, Cu, Co, Zn, Zr…. Lấy đâu ra than, dầu, khí tự nhiên trong những vùng nhiệt độ như vậy? do vậy con số 40 – 70 tỷ tấn khí CO2/năm, là do các anh “nặn” ra.
Tuy nhiên, vì các anh đều là những nhà khoa học lớn trong lĩnh vực mỏ và năng lượng, lại đầy quyền uy, các anh đã chủ trì nhiều công trình, đề tài nghiên cứu khoa học, các anh không dễ từ bỏ những con số của mình, nên tôi đã đào sâu hơn nữa, tìm thêm nhiều chứng cứ khoa học hơn để thuyết phục các anh:
Những dung nham mà núi lửa phun trào ra tạo thành tro có các hợp chất, ví dụ 65% SiO2, 18% Al2O3, 5% FetO3, 2% MgO, 4% CaO, 4% Na2O, and 0.1% S và khoảng 37 kim loại lượng vết như Ba, Cu, Mn, Co, Sr, V, Zn, Zr... (Volcanic ash samples from the May 18, 1980, Mount St. Helens eruption were analyzed). Như vậy là không thấy có cacbon ở đây.
Về “Trước đây, trong những thời kỳ kiến tạo của trái đất thì cũng đã có nhiều lần hiệu ứng nhà kính đã diễn ra và tạo ra những thời kỳ đen tối cho các loài động thực vật. Nguyên nhân của những lần đó là do núi lửa phun trào”
Thông tin chi tiết về những thời kỳ kiến tạo Trái đất mọi người có thể xem tại địa chỉ này https://en.wikipedia.org/wiki/History_of_Earth Dưới đây là một vài tóm tắt cô đọng nhất:
Trái đất hình thành cách đây 4,55 tỷ năm bằng sự “va chập” những “mảnh vụn” nhiệt độ vô cùng cao trên vành đĩa hệ Mặt trời. Khối rực lửa này “keo tụ, đặc dần” và nguội dần. Dấu hiệu hình thành nước tiền “đại dương” và sự sống đầu tiên là tế bào nhân thật cách đây 4 tỷ năm. Xuất hiện tế bào quang hợp sớm nhất đầu tiên cách đây 3,2 tỷ năm. Thủy tổ đầu tiên loài người gọi là Hominins, hình thành từ cách đây từ 4 – 13 triệu năm.
Từ cách đây 66 triệu năm đến 650 triệu năm SỰ SỐNG trên Trái đất đã trải qua tất cả 5 lần HỦY DIỆT HÀNG LOẠT (khi đó chưa có thủy tổ loài người):
Hủy diệt 1: Gọi là hủy diệt Ordovician-Silurian extinction, Giả thiết xảy ra cách đây 650 triệu năm. Trái đất như là một quả cầu toàn băng. Chưa lý giải được vì sao Trái đất lại trở nên băng giá như vậy.
Hủy diệt 2: Có tên là Late Devonian extinction do sự phát triển các loại cây hấp thụ triệt để khí CO2 ở trong khí quyển. Đại dương cũng hập thụ triệt để khí CO2, không còn dưỡng chất (CO2) để nuôi cây. Thực vật chết, kéo theo động vật chết hàng loạt.
Hủy diệt 3: Gọi là hủy diệt Permian-Triassic. Giả thiết cách đây 500 triệu năm do tổ hợp tác động núi nửa khổng lồ, tại vùng Seberi của Nga, phun trào liên tục trong 1 triệu năm, và va đập với hành tinh nhỏ, các loại đá methane ở đáy đại dương bốc cháy, nước đại dương cạn kiệt oxy, mực nước đại dương trao đảo.
Hủy diệt 4: Có tên là Triassic-Jurassic extinction Cách đây 201 triệu năm về trước. Giả thiết là các loại khủng long khổng lồ chiến đấu, tiêu diệt lẫn nhau.
Hủy diệt 5: Gần đây nhất, có tên là the K-T extinction. 66 triệu năm về trước một tiểu hành tinh, bán kính khoảng 10km và đập vào bán đảo Yucatan miền Trung châu Mỹ, biển Mexico tạo lớp bụi mù khồng lồ dày đặc vào khí quyển che kín ánh sáng mặt trời, triệt tiêu khả năng quang hợp của thực vật. Thực vật bị tiêu diệt thì động vật cũng chết theo hàng loạt.
Đi lấy những hiện tượng tự nhiên, không liên quan, từ cách đây đây 66 triệu năm đến 650 triệu năm, trong khi thủy tổ loài người là Hominins, hình thành từ cách đây từ 4 – 13 triệu năm, để bảo vệ cho bản Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia Việt Nam hiện nay thì đúng là thần kinh.
Việc tìm bài báo đề cập đến tổng tất cả các núi lửa trên toàn Trái đất phát thải vào khí quyển bao nhiêu tỷ tấn CO2 thực sự không dễ dàng. Cuối cùng tôi tìm được 2 tài liệu dưới đây:
Theo 2 tài liệu này thì Trái đất có khoảng 1000 núi lửa hoạt động (active), mức độ bùng phát hay lắng yên khác nhau, phân bổ chủ yếu trên đất liền, vùng núi cao và có cả dưới đáy đại dương hay hồ lớn. Tổng tất cả 1000 núi lửa này hoạt động, bình quân trong 1 năm xả thải vào khí quyển 645 triệu tấn CO2 = 0,645 tỷ tấn mà thôi. Con số 40-70 tỷ tấn của các anh sẽ lớn gấp 6200% – 10.900%!!! (40/0,645x100% và tương tự). Có lẽ các anh nên góp ý cho tác giả nước ngoài để họ cập nhật thông tin, tin cậy hơn từ Hiệp hội Năng lượng Việt Nam.
Còn nữa, chưa hết sự ngỡ ngàng. Tôi vào Google lần theo những thông tin mà TS. Quang nêu về “Sự đóng góp của núi lửa phun vào hiệu ứng nhà kính là rất lớn. Đợt phun trào núi lửa năm 2000 tại Indonesia cũng đóng góp một lượng khí nhà kính đáng kể vào trái đất.”
Thông tin nhiều nhất, rất chi tiết và tổng hợp nhất chỉ có tại đây:
https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_volcanoes_in_Indonesia
Cho đến năm 2012, Indonesia có tất cả 127 núi lửa hoạt động.
Major volcanoes in Indonesia
Dưới đây chỉ trích dẫn 4 trong số 127 núi lửa hoạt động, với những thời điểm rất khác nhau. Vào năm 2000 chỉ có hai núi lửa nhỏ bé là Kaba và Peuet Sague, như ở dưới đây:
Name |
Shape |
Elevation |
Last eruption |
Geolocation |
1,952 metres (6,404 ft) |
22 August 2000 (1) |
|||
2,801 metres (9,190 ft) |
25 December 2000 (2) |
|||
1,625 metres (5,331 ft) |
160 BC ± 30 years |
|||
2,460 metres (8,070 ft) |
20 February 2018 |
Tuyệt nhiên, tất cả 127 núi lửa liệt kê, không hề có bất cứ một thông tin nào liên quan đến lượng phát thải CO2. Hai núi lửa hoạt động trong năm 2000 là rất nhỏ ở trên vùng núi cao, hẻo lánh, xa dân cư. Như ở trên đã nói cả 1000 núi lửa toàn cầu phát thải chỉ bé bằng cái móng tay. Do vậy, hai núi lửa tí hon này của Indonesia bõ bèn gì đâu đối với xả thải. Nhiều khả năng là không có bất cứ một nghiên cứu nào của các chuyên gia sở tại hay quốc tế đến giúp cho Indonesia tính toán lượng xả thải CO2 từ các núi lửa. TS. Quang như vậy lại tiếp tục bịa thông tin. Ở cương vị là người thày, nếu anh chấm luận văn của một nghiên cứu sinh làm Tiến sĩ với dẫn chứng không thể kiểm chứng được như trên thì anh suy nghĩ ra sao?
Khoa học Năng lượng Việt Nam ngộ quá phải không các anh?
Còn nữa, chưa hết!
Heads of delegations at the 2015 United Nations Climate Change Conference which established the Paris Agreement.
Năm 2015 tại Paris, các nguyên thủ quốc gia của 175 nước trên Thế giới, chung tay góp sức để cắt giảm phát thải khí CO2 do con người gây ra và đi theo hướng năng lượng sạch, thân thiện môi trường. Chính phủ Việt Nam cũng tham dự và cam kết thực hiện cắt giảm phát thải. Duy nhất có Hiệp hội Năng lượng Việt Nam đã viết và đăng trên website của họ ý là “việc Việt Nam hăng hái tham gia thỏa thuận Paris 2015, cắt giảm phát thải là không có lợi cho sự phát triển của đất nước”. Hy vọng là họ vẫn lưu giữ, không gỡ bỏ.
Theo một vài quan chức phụ trách năng lượng của Bộ Công thương đẩy mạnh phát triển nhiệt điện than mới là có lợi cho sự phát triển của đất nước, nên sau đó họ vẫn trình lên Thủ tướng Chính phủ bản “Qui hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến năm 2030”, là có hại cho đất nước, đã được ký ban hành tại Quyết định số 428/2016/QĐ-TTg, ngày 18/3/2016.
Xu hướng phát triển điện năng của Việt Nam hiện nay so với xu hướng chung của toàn Thế giới là trái ngược 180o. Việt Nam đơn độc quay ngược, chạy rất nhanh về với nhiệt điện than, mô hình điện Thế giới thập kỷ 60 - 70. Họ đã đặt Việt Nam cô đơn, đứng ngoài Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế (The International Renewable Energy Agency - IRENA) là tổ chức liên Chính phủ, ra đời ngày 26/01/2009 tại hội nghị thành lập ở Bonn (Cộng hòa Liên bang Đức), 180 nước thành viên, có sứ mệnh hỗ trợ các nước trong việc chuyển đổi theo hướng năng lượng bền vững.
Những điều ngộ quá vẫn còn:
Dưới đây là ảnh chụp trang đầu tiên của bài báo anh Sơn viết:
Ngay cái tiêu đề anh viết cũng khó thuyết phục. NLTT ở một số nơi trên Thế giới đã có thể thay thế được nhiệt điện than. Ngày 20/7/2017 cơ quan Điện và Nước của thành phố Dubai thông báo là dự án Điện mặt trời Al Maktoum giai đoạn 3 sẽ hoàn tất vào năm 2020, với chi phí qui chuẩn LCOE sẽ là 2,99 cents Mỹ/kWh (khoảng 690 đồng VNĐ), SIÊU SẠCH VÀ SIÊU RỂ CỦA DUBAI. Tỷ trọng điện mặt trời 25% vào năm 2030 và 75% vào năm 2050. Còn nhiều nơi khác nữa trên Thế giới điện NLTT đóng vai trò trụ cột. Vào năm 2050 sẽ xuất hiện nhiều nước khác nữa coi điện NLTT là chủ lực, điện than có vai trò rất nhỏ bé; đặc biệt tại nước Mỹ và Úc nhiệt điện than sẽ biến mất (theo Bloomberg New Energy Outlook 2018), mặc dù họ là hai nước sản xuất và xuất khẩu than hàng đầu Thế giới.
“Nhiệt điện than chưa có gì thay thế”, cái tiêu đề rất ngộ, vì theo dự báo của IEA, cho giai đoạn 2017 đến 2040, bình quân toàn Thế giới mỗi năm, tổng công suất điện nhiệt điện than mới đưa vào bổ sung chỉ bằng khoảng 1/10 của điện NLTT, như số liệu ở bảng dưới đây; có nghĩa là điện gió, điện mặt trời… đang dần dần thay thế nhiệt điện than đó thôi. Điện NLTT lắp đặt mới hàng năm chiếm đến 71%, trong khi nhiệt điện than chỉ có 7,3% của tổng tất cả các loại điện. Còn điều ngộ nữa là theo Quyết định số 428/2016/QĐ-TTg, ngày 18/3/2016, cho giai đoạn 2020 – 2030, trung bình 1 năm, công suất nhiệt điện than của Việt Nam lắp đặt mới là 2.900MW trong khi toàn cầu chỉ có 16.600MW, như vậy là Việt Nam chiếm đến 2.900/16.600 x 100% = 17,5% của toàn Thế giới. Nói đơn giản là Thế giới sẽ chủ yếu lắp đặt điện NLTT, còn Việt Nam sẽ chủ yếu là nhiệt điện than. Rõ ràng là một NGHỊCH LÝ.
Anh Sơn và các đồng nghiệp của anh toàn lấy những tiêu chuẩn, kết quả của quá khứ cách đây 40 năm ra để xem xét, làm mục tiêu cho Việt Nam phấn đấu trong tương lai. Cái thời COMECON hay SEV còn lấy kinh tế hiện vật ra làm tiêu chí, làm chuẩn để xem xét một quốc gia đói nghèo. Đó là 500kg lương thực, 500kg dầu, 500kg thép, 500kg than, 500kWh điện. Việt Nam mới chỉ đạt có 2 là lương thực và thép. Thưa anh Sơn là đã từ lâu Chính phủ Việt Nam, World Bank và nhiều tổ chức quốc tế không dùng tiêu chí hiện vật mà chuyển sang tiền tệ hóa hết rồi anh ạ. Hiệp hội Năng lượng ngộ quá phải không anh?
Thưa các anh,
Trong một xã hội sinh thái có 3 nhóm hoạt động gắn kết hữu cơ với nhau như kiềng 3 chân là Sản xuất – Phân phối – Tiêu dùng bền vững (sustainable consumption). Đảng và Nhà nước đang xử lý thu hẹp khoảng cách giàu – nghèo bằng tập trung mọi nguồn lực cho sản xuất và sản xuất. Cả nước hừng hực với khí thế sản xuất; tranh nhau đào bới tài nguyên thiên nhiên. Coi thúc đẩy sản xuất là cách duy nhất để giảm khoảng cách giầu – nghèo; kiểu 25 tuổi xả thân kiếm tiền để 50 tuổi xả tiền cứu thân. Nhóm giải pháp phân phối đã bị xem nhẹ, hoặc vận dụng theo kiểu có lợi cho người giầu, làm dãn thêm khoảng cách giầu – nghèo. Lĩnh vực Tiêu dùng bền vững (sustainable consumption) hoàn toàn bị lãng quyên. Tiêu dùng bền vững là tiêu dùng thân thiện môi trường, tiêu dùng không vượt quá khả năng chịu tải của hệ sinh thái, là tiêu dùng không làm ảnh hưởng đến điều kiện sống (môi trường sinh thái) của thế hệ tương lai. Đất nước nhỏ bé với 332.000km2, mật độ dân số thuộc hàng cao nhất Thế giới, 288 người cạnh tranh, sống trên 1km2 (Trung Quốc là 144 người) nếu không nghĩ đến tiêu dùng bền vững, tiêu dùng thân thiện môi trường, chắc chắn sẽ thất bại. Tóm lại, chúng ta đang đứng trên kiềng 1 chân thôi, chỉ dựa vào Sản xuất, nên không bền vững, luôn chao đảo. Trụ cột này lại đang là sản xuất phi sinh thái. Do vậy thất bại đang diễn ra, hiện nay chúng ta đang đau đớn xả tiền để cứu thân, ung thư đang đến với mọi gia đình.
Đảng và Nhà nước nên cử vài đoàn đến các nước Bắc Âu học tập kinh nghiệm của họ về các giải pháp phân phối thu nhập để thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, đảm bảo công bằng và an sinh xã hội, mô hình xã hội sinh thái lý tưởng nhất Thế giới.
“Không tồn tại một xã hội thuần túy, chỉ tồn tại một xã hội sinh thái. Mọi quan điểm phát triển (kinh tế, chính trị, văn hóa) sẽ đổ vỡ nếu như chúng không xuất phát từ quan điểm xã hội sinh thái – Nguyễn Đức Thắng”
|
Kính thư,
Nguyễn Đức Thắng, Hà Nội 27/4/2018