Hà Nội, ngày 14/5/2020
Kính gửi:
|
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang, Long An Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học – kỹ thuật Việt Nam |
(Về bốn lý do cơ bản khiến việc áp dụng kinh nghiệm đê biển, cống đập Hà Lan vào Việt Nam là không khoa học và lãng phí)
Tôi tên là Nguyễn Đức Thắng, cán bộ Nhà nước về hưu năm 2008, có quá trình công tác, khởi đầu tại Viện Kỹ thuật quân sự, tiếp đến là Viện Khoa học Việt Nam và cuối cùng là Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
20 năm qua có rất nhiều đoàn nghiên cứu, khảo sát của Việt Nam trong lĩnh vực thủy lợi, thủy văn đã đến đất nước Hà Lan thăm quan, nghiên cứu và học tập. Họ choáng ngợp trước những kỳ tích của bạn và quyết đem về áp dụng.
Đó là đê bao dài 172km với 12 cống đập, được phê duyệt tại Quyết định số 1547/QĐ-TTg ngày 28/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ “Quy hoạch thủy lợi chống ngập úng khu vực thành phố Hồ Chí Minh”. Đó là đề xuất đê biển kỳ vĩ nối Vũng Tàu – Gò Công (Tiền Giang) để bảo vệ trọn vẹn Tp. HCM và 4 huyện của tỉnh Long An. Dự toán tổng chi phí riêng cho đê biển này 160.964 tỷ đồng (gần bằng 8 tỷ USD). Đó là cống đập Ba Lai, khánh thành ngày 30/4/2002, bịt miệng cửa sông Ba Lai. Một trong 9 nhánh sông Cửu Long đã chết, vì không có dòng chảy, bị bồi lắng và ô nhiễm. Do vậy hiện chỉ là Đồng bằng sông Bát Long mà thôi. Đó là những đề xuất mới của các cây đa khoa học Thủy lợi bịt miệng nốt 8 cửa sông còn lại. Đó là dự án cống đập Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1 tại huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, đang triển khai thực hiện. Tổng mức đầu tư trên 3.309 tỉ đồng. Sông Cái Lớn và Cái Bé là hai con sông tự nhiên lớn nhất đổ vào biển Tây tại vịnh Rạch Giá đang bị bịt miệng.
Xin kính trình các quí lãnh đạo 4 lý do cơ bản khiến việc áp dụng kinh nghiệm đê biển, cống đập Hà Lan vào Việt Nam là không khoa học và lãng phí (xem bài viết đính kèm).
Xin trân trọng cám ơn.
Nguyễn Đức Thắng. Điện thoại 0352344233. Email: ndthangndt@yahoo.com
==============================================
Thực tế/Sự thật (TT/ST) 1: Đất nước Hà Lan rất đáng được ngưỡng mộ, là cường quốc số 1 về đê biển, mặc dù là một đất nước quá bé nhỏ so với Việt Nam. Hà Lan có diện tích khoảng 41.500km2, ngang bằng với diện tích vùng Đồng bằng sông Cửu Long (bao gồm cả đảo Phú Quốc của tỉnh Kiên Giang). Dân số đất nước Hà Lan năm 2019 là 17,2 triệu. Dân số ĐBSCL năm 2019 đang là 21,5 triệu người. Dân số thành phố Hồ Chí Minh đang khoảng 9 triệu người.
TT/ST 2: 20 năm qua đã rất nhiều đoàn nghiên cứu, khảo sát của Việt Nam (cao, thấp khác nhau, từ Trung ương đến địa phương) trong lĩnh vực thủy lợi, thủy văn đã đến đất nước Hà Lan thăm quan, nghiên cứu và học tập. Họ choáng ngợp trước những kỳ tích của bạn và quyết đem về áp dụng.
TT/ST 3: Đó là đê bao dài 172km với 12 cống đập, được phê duyệt tại Quyết định số 1547/QĐ-TTg ngày 28/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch thủy lợi chống ngập úng khu vực thành phố Hồ Chí Minh”
TT/ST 4: Đó là đề xuất đê biển kỳ vĩ nối Vũng Tàu – Gò Công (Tiền Giang) để bảo vệ trọn vẹn Tp. HCM và 4 huyện của tỉnh Long An, chống ngập úng cục bộ sau mưa, chống lũ lớn từ sông Sài Gòn và sông Đồng Nai, chống BĐKH và mực nước biển dâng. Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam làm chủ nhiệm đề tài nghiên cứu này từ năm 2010 – 2012. Riêng tiền cho nghiên cứu những căn cứ, cơ sở khoa học thôi đã hết hơn 30 tỷ đồng. GS.TS. Hòa chủ nhiệm đề tài cho biết “Ý tưởng xây dựng tuyến đê biển này đã được Chính phủ đồng ý giao cho 4 Bộ liên quan tiến hành nghiên cứu… các nội dung và kết quả nghiên cứu đã bao trùm khá đầy đủ về hiệu quả giảm ngập, ngăn mặn, tăng cường rất tốt khả năng chống lũ, chống ngập lụt, tác động của giải pháp đến kinh tế xã hội, môi trường hệ sinh thái… Những giải pháp, biện pháp kỹ thuật và công nghệ thi công sẽ rất mới, hiện đại mang tầm cỡ quốc tế…”. Dự toán tổng chi phí cho đê biển này 160.964 tỷ đồng (gần bằng 8 tỷ USD).
TT/ST 5: Đó là cống đập Ba Lai, hoàn thành ngày 30/4/2002, bịt miệng sông Ba Lai để ngọt hóa vùng này. Tuy nhiên, nước mặn bề mặt và nước mặn ngầm đã tấn công vùng này từ tứ phía. Dự án đã thất bại từ lâu. Sông mà không có dòng chảy là sông chết. Nước lợ tù túng với nhiều nước thải sinh hoạt dân cư, khu công nghiệp đổ vào sông, đã gây ô nhiễm nặng nề. Người dân vùng này vô cùng tiếc nuối vì con sông đã chết. Vì vậy, cần đổi tên đồng bằng sông Cửu Long, thành đồng bằng sông Bát Long cho đúng với thực tế.
TT/ST 6: Đó là gần đây nhất, nhà khoa học Lương Quang Xô (Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam) đã nghiên cứu và đề xuất bịt hết tất cả các cửa sông lớn đổ ra biển Đông và biển Tây, nguyên văn:
“+ Tiến hành xây dựng 10 cống trên các sông lớn như: Cái Bé (-7m, 90m), Cái Lớn (-7m, 400m), Vàm Cỏ (-8m, 400m), Hàm Luông (10m, 1300m), Cửa Tiểu (-5m, 800m), Cổ Chiên 1 (-10m, 1000m), Cổ Chiên 2 (-10m, 1200m), Định An (-7m, 4000m), Trần Đề (-8,5m, 1200m) và Cửa Đại (-8m, 1200m). Các cống này đóng ngăn mặn từ tháng I đến hết tháng VI, từ tháng VII đến tháng XII mở để thoát lũ”.
TT/ST 7: Vì thương các con sông quá, nhà khoa học Lã Song Toàn đã đề xuất GIẢI PHÁP MỚI: các cửa sông trên chỉ bịt khoảng ba phần tư (3/4) thôi, để lại một khe nhỏ cho tàu bè, tôm, cua, cá, ốc có thể tự do đi lại được như ngàn năm đã có (nguồn: có đầy trên mạng chỉ cần Google là ra).
TT/ST 8: Đó là dự án cống đập Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1 tại huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, được Bộ NN&PTNT đang tấp nập triển khai thực hiện. Tổng mức đầu tư trên 3.309 tỉ đồng (nguồn vốn trái phiếu Chính phủ là 3.300 tỉ đồng (tiền đi vay), vốn ngân sách 9,5 tỉ đồng. Sông Cái Lớn và Cái Bé là hai con sông tự nhiên lớn nhất đổ vào biển Tây tại vịnh Rạch Giá đang bị bịt miệng.
Vậy tại sao lại không nên áp dụng kinh nghiệm đê bao, cống đập ngăn biển của Hà Lan vào Việt Nam?
Vì có 4 sự khác biệt về tự nhiên rất căn bản giữa đất nước Hà Lan so với ĐBSCL cộng với Tp. HCM mà các nhà khoa học, chuyên gia Việt Nam không để ý đến. Đó là:
1) Biển Đông và biển Tây ôm ĐBSCL và Tp. HCM lại vô cùng hiền hòa, ngàn năm trìu mến với người dân, bãi biển có thể tắm mát, vui đùa quanh năm ngày tháng. Điều mà người dân đất nước Hà Lan vô cùng thèm khát. Trái ngược, biển Bắc của họ vô cùng dữ dội, sóng to gió lớn, bão biển thường xuyên và chỉ có thể bơi biển được ít ngày hè mà thôi. Họ thèm khát có được ở biển Bắc một rừng, như rừng ngập mặn Cần Giờ ở Tp. HCM.
2) Tp. HCM và ĐBSCL chưa bao giờ chứng kiến LŨ, LỤT chết người, cuốn trôi người, vật nuôi và nhà cửa, chỉ có mùa nước nổi và mùa nước kiệt, nước lên từ từ và rút từ từ. Còn Hà Lan trong lịch sử thì tang thương, kinh hoàng lắm. Theo tôi, họ rất ước ao có được những điều kiện thời tiết, khí hậu, tự nhiên như ở ĐBSCL.
3) 100% diện tích mặt đất của Tp. HCM và ĐBSCL đều có độ cao từ 1m – 6 m trên mực nước biển. Như vậy có nghĩa là triều cường còn lâu mới làm ướt chân người dân vùng có độ cao trên 2m. Trái ngược, người Hà Lan thường nói “Ông Trời tạo ra Thế giới, người Hà Lan tạo ra đất nước Hà Lan” vì 25% diện tích Hà Lan (khoảng 10.400km2) mà người dân hiện đang sống, là dưới mực nước biển. Ví dụ: Quận Haarlemmermeer thuộc một tỉnh phía bắc Hà Lan, dân số 147.000 người (8/2017), tổng diện tích là 185km2 (gần bằng tổng diện tích từ Quận 1 đến Quận 12, trừ Quận 9 của Tp. HCM). Toàn quận có độ cao bình quân là -4m (âm). Nôm na, nếu họ ngồi ăn cơm ở dưới tầng 1, hãy tưởng tượng xung quanh họ mực nước biển ngang ngập đến giữa tầng 2. Do vậy, nếu đất nước Hà Lan không trở thành cường quốc số 1 về đê biển, vỡ đê thì 1/4 đất nước sẽ ngập trong tang thương. Theo tôi nên gọi là những bức tường biển vĩ đại của người dân Hà Lan. Chính vì lý do này nên hầu hết các nước trên Thế giới kính nể những công trình đê, đập vĩ đại của Hà Lan nhưng không áp dụng, vì đất nước họ đều có dư thừa độ cao trên mực nước biển.
Thế mà người Hà Lan vẫn chưa yên tâm với khả năng NẾU ĐỘNG ĐẤT LÀM VỠ ĐÊ THÌ SAO? Và họ đang lựa chọn tương lai NHÀ NỔI cho những vùng đất này. Đê vỡ, nhưng nhà vẫn nổi. Họ tin rằng giải pháp và công nghệ về các hệ thống nhà nổi, các khu dân cư nhà nổi của họ sẽ lại dẫn đầu Thế giới.
4) Người dân Hà Lan hiểu chống biến đổi khí hậu chính xác là trị nguyên nhân gốc rễ, thực thi thỏa thuận Paris 2015, cắt giảm phát thải cac bon (khí CO2 và CH4), là khí gây hiệu ứng nhà kính, làm Trái đất ấm dần lên. Cắt giảm phát thải cac bon chủ yếu bằng giảm thiểu sử dụng than đá, sử dụng xăng, dầu; chuyển sang sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, vô tận đó là điện gió và điện mặt trời. Nhiều nước trên Thế giới đang phấn đấu loại bỏ hoàn toàn sử dụng than đá. Trái ngược, Việt Nam đang thực hiện chống biến đổi khí hậu bằng đẩy mạnh phát thải cac bon (Quyết định số 428/2016/QĐ-TTg, ngày 18/3/2016 phê duyệt Qui hoạch phát triển Điện lực đã xác định nhiệt điện than trong tương lai sẽ đóng vai trò trụ cột kinh tế của đất nước) và đang rất tích cực đổ nhiều tiền của xây đê bao, cống đập chống mực nước biển dâng, mặc dù cho đến nay mới chỉ dâng tối đa có 2cm (bằng móng tay) tại biển Đông.
Buồn là 4 khác biệt cơ bản này vẫn không xóa được đam mê của các nhà khoa học thủy lợi Việt Nam đối với đê biển, đê bao và cống đập vĩ đại, copy của người Hà Lan, triển khai tại Tp. HCM và ĐBSCL.
Thưa bạn đọc,
Tôi hoan nghênh những ý kiến phê phán, nhưng xin hãy bám vào từng nội dung cụ thể mà tôi đã liệt kê, chỉ ra những chỗ sai để tôi hoàn thiện bản thân.
Trân trọng mời bạn đọc thêm bài “SỰ GIA TĂNG HẠN, MẶN VÀ NGẬP ÚNG TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LÀ DO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN GÂY RA”
Và “VIỆT NAM KHÔNG CÓ KHOA HỌC, CHỈ CÓ KIÊU NGẠO VÀ CÔNG NGHỆ NGOẠI NHẬP”
Nguyễn Đức Thắng, Hà Nội, ngày 14/5/2020.